New International Version 1984
|
Vietnamese Traditional Version 1934
|
Chapter 1
Chương 1
[1] These are the names of the sons of Israel who went to Egypt with Jacob, each with his family:
[2] Reuben, Simeon, Levi and Judah; [3] Issachar, Zebulun and Benjamin; [4] Dan and Naphtali; Gad and Asher. [5] The descendants of Jacob numbered seventy in all; Joseph was already in Egypt. [6] Now Joseph and all his brothers and all that generation died, [7] but the Israelites were fruitful and multiplied greatly and became exceedingly numerous, so that the land was filled with them. [8] Then a new king, who did not know about Joseph, came to power in Egypt. [9] "Look," he said to his people, "the Israelites have become much too numerous for us. [10] Come, we must deal shrewdly with them or they will become even more numerous and, if war breaks out, will join our enemies, fight against us and leave the country." [11] So they put slave masters over them to oppress them with forced labor, and they built Pithom and Rameses as store cities for Pharaoh. [12] But the more they were oppressed, the more they multiplied and spread; so the Egyptians came to dread the Israelites [13] and worked them ruthlessly. [14] They made their lives bitter with hard labor in brick and mortar and with all kinds of work in the fields; in all their hard labor the Egyptians used them ruthlessly. [15] The king of Egypt said to the Hebrew midwives, whose names were Shiphrah and Puah, [16] "When you help the Hebrew women in childbirth and observe them on the delivery stool, if it is a boy, kill him; but if it is a girl, let her live." [17] The midwives, however, feared God and did not do what the king of Egypt had told them to do; they let the boys live. [18] Then the king of Egypt summoned the midwives and asked them, "Why have you done this? Why have you let the boys live?" [19] The midwives answered Pharaoh, "Hebrew women are not like Egyptian women; they are vigorous and give birth before the midwives arrive." [20] So God was kind to the midwives and the people increased and became even more numerous. [21] And because the midwives feared God, he gave them families of their own. [22] Then Pharaoh gave this order to all his people: "Every boy that is born you must throw into the Nile, but let every girl live." |
[1] Ðây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên, mỗi người đều dẫn người nhà mình đi với Gia-cốp đến xứ Ê-díp-tô:
[2] Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa; [3] Y-sa-ca, Sa-bu-lôn và Bên-gia-min; [4] Ðan, Nép-ta-li, Gát, và A-se. [5] Hết thảy những người bởi Gia-cốp sanh ra, được bảy mươi người; Giô-sép đã ở tại xứ Ê-díp-tô. [6] Vả, Giô-sép và anh em người cùng mọi kẻ đồng đời đó đều chết hết. [7] Con cháu Y-sơ-ra-ên thêm nhiều lạ lùng, nẩy nở ra, và trở nên rất cường thạnh; cả xứ đều đầy dẫy. [8] Nhưng bấy giờ tại nước Ê-díp-tô, có một vua mới lên ngôi, chẳng quen biết Giô-sép. [9] Vua phán cùng dân mình rằng: Nầy, dân Y-sơ-ra-ên đông và mạnh hơn chúng ta; [10] hè! ta hãy dùng chước khôn ngoan đối cùng họ, kẻo họ thêm nhiều lên, một mai nếu có cơn chinh chiến xảy đến, họ sẽ hiệp cùng quân nghịch đánh lại ta, và ra khỏi xứ chăng. [11] Vậy, người Ê-díp-tô bèn đặt các kẻ đầu xâu để bắt dân Y-sơ-ra-ên làm xâu khó nhọc; họ xây thành Phi-thom và Ram-se dùng làm kho tàng cho Pha-ra-ôn. [12] Nhưng người Ê-díp-tô càng bắt làm khó nhọc chừng nào, dân Y-sơ-ra-ên càng thêm nhiều lên, và tràn ra chừng nấy. Người Ê-díp-tô bèn đem lòng ghen ghét dân Y-sơ-ra-ên, [13] bắt làm công việc nhọc nhằn, [14] gây cho đời dân ấy nên cay đắng, vì nỗi khổ sở nhồi đất, làm gạch và mọi việc khác ở ngoài đồng. Các công việc nầy người Ê-díp-tô bắt dân Y-sơ-ra-ên làm nhọc nhằn lắm. [15] Vua xứ Ê-díp-tô cũng phán cùng các bà mụ của dân Hê-bơ-rơ, một người tên Siếp-ra và một người tên Phu-a, [16] mà rằng: Khi các ngươi đi rước thai cho người đàn bà Hê-bơ-rơ, hễ thấy sanh con trai, thì hãy làm cho chết đi; còn con gái, thì hãy để cho sống. [17] Nhưng các bà mụ kính sợ Ðức Chúa Trời, chẳng làm theo lời vua Ê-díp-tô phán dặn, đều để cho các con trai sống hết. [18] Vua xứ Ê-díp-tô bèn đòi những bà mụ mà phán rằng: Sao các ngươi làm như vậy, để cho những con trai sống? [19] Các bà mụ tâu rằng: Ấy tại người đàn bà Hê-bơ-rơ chẳng phải như người đàn bà Ê-díp-tô; vì họ mạnh khỏe hơn, đã sanh nở trước khi mụ đến. [20] Ðức Chúa Trời ban ơn cho những bà mụ; dân sự gia thêm và trở nên đông đúc. [21] Ấy vậy, vì bà mụ có lòng kính sợ Ðức Chúa Trời, nên Ngài làm cho nhà họ được thạnh vượng. [22] Pha-ra-ôn bèn truyền lịnh cho cả dân mình rằng: Phàm con trai của dân Hê-bơ-rơ mới sanh, hãy liệng xuống sông; còn con gái, thì để cho sống. |
Chapter 2
Chương 2
[1] Now a man of the house of Levi married a Levite woman,
[2] and she became pregnant and gave birth to a son. When she saw that he was a fine child, she hid him for three months. [3] But when she could hide him no longer, she got a papyrus basket for him and coated it with tar and pitch. Then she placed the child in it and put it among the reeds along the bank of the Nile. [4] His sister stood at a distance to see what would happen to him. [5] Then Pharaoh's daughter went down to the Nile to bathe, and her attendants were walking along the river bank. She saw the basket among the reeds and sent her slave girl to get it. [6] She opened it and saw the baby. He was crying, and she felt sorry for him. "This is one of the Hebrew babies," she said. [7] Then his sister asked Pharaoh's daughter, "Shall I go and get one of the Hebrew women to nurse the baby for you?" [8] "Yes, go," she answered. And the girl went and got the baby's mother. [9] Pharaoh's daughter said to her, "Take this baby and nurse him for me, and I will pay you." So the woman took the baby and nursed him. [10] When the child grew older, she took him to Pharaoh's daughter and he became her son. She named him Moses, saying, "I drew him out of the water." [11] One day, after Moses had grown up, he went out to where his own people were and watched them at their hard labor. He saw an Egyptian beating a Hebrew, one of his own people. [12] Glancing this way and that and seeing no one, he killed the Egyptian and hid him in the sand. [13] The next day he went out and saw two Hebrews fighting. He asked the one in the wrong, "Why are you hitting your fellow Hebrew?" [14] The man said, "Who made you ruler and judge over us? Are you thinking of killing me as you killed the Egyptian?" Then Moses was afraid and thought, "What I did must have become known." [15] When Pharaoh heard of this, he tried to kill Moses, but Moses fled from Pharaoh and went to live in Midian, where he sat down by a well. [16] Now a priest of Midian had seven daughters, and they came to draw water and fill the troughs to water their father's flock. [17] Some shepherds came along and drove them away, but Moses got up and came to their rescue and watered their flock. [18] When the girls returned to Reuel their father, he asked them, "Why have you returned so early today?" [19] They answered, "An Egyptian rescued us from the shepherds. He even drew water for us and watered the flock." [20] "And where is he?" he asked his daughters. "Why did you leave him? Invite him to have something to eat." [21] Moses agreed to stay with the man, who gave his daughter Zipporah to Moses in marriage. [22] Zipporah gave birth to a son, and Moses named him Gershom, saying, "I have become an alien in a foreign land." [23] During that long period, the king of Egypt died. The Israelites groaned in their slavery and cried out, and their cry for help because of their slavery went up to God. [24] God heard their groaning and he remembered his covenant with Abraham, with Isaac and with Jacob. [25] So God looked on the Israelites and was concerned about them. |
[1] Vả, có một người trong họ Lê-vi đi cưới con gái Lê-vi làm vợ.
[2] Nàng thọ thai, và sanh một con trai; thấy con ngộ, nên đem đi giấu trong ba tháng. [3] Nhưng giấu lâu hơn nữa không được, nàng bèn lấy một cái rương mây, trét chai và nhựa thông, rồi để đứa trẻ vào, đem thả trong đám sậy dựa mé sông. [4] Người chị đứa trẻ đứng xa nơi đó đặng cho biết nó sẽ ra sao. [5] Vả, bấy giờ, con gái Pha-ra-ôn xuống sông tắm, còn các con đòi đi dạo chơi trên mé sông; công chúa thấy cái rương mây đó giữa đám sậy, bèn sai con đòi mình đi vớt lên. [6] Công chúa mở rương ra, thấy đứa trẻ, là một đứa con trai nhỏ đương khóc, bèn động lòng thương xót mà rằng: Ấy là một đứa con của người Hê-bơ-rơ. [7] Người chị đứa trẻ bèn nói cùng công chúa rằng: Tôi phải đi kêu một người vú trong bọn đàn bà Hê-bơ-rơ đặng cho dứa trẻ bú chớ? [8] Công chúa đáp rằng: Hãy đi đi. Người gái trẻ đó kêu mẹ của đứa trẻ. [9] Công chúa nói rằng: Hãy đem đứa trẻ nầy về nuôi bú cho ta; ta sẽ trả tiền công cho. Người đàn bà ẵm đứa trẻ mà cho bú. [10] Khi lớn khôn rồi, người bèn dẫn nó vào cho công chúa, nàng nhận làm con, và đặt tên là Môi-se, vì nàng nói rằng: Ta đã vớt nó khỏi nước. [11] Vả, đang lúc đó, Môi-se đã lớn khôn rồi, ra đi đến cùng anh em mình, xem thấy công việc nhọc nhằn của họ; cũng thấy một người Ê-díp-tô đánh một người Hê-bơ-rơ trong vòng anh em mình; [12] ngó quanh quất chẳng thấy ai, bèn giết người Ê-díp-tô đem vùi trong cát. [13] Qua ngày sau, Môi-se đi ra nữa, thấy hai người Hê-bơ-rơ đánh lộn, bèn nói cùng người có lỗi rằng: Sao ngươi đánh người đồng loại mình? [14] Nhưng người đó đáp rằng: Ai đặt ngươi làm vua, làm quan án cho chúng ta? Có phải muốn giết ta như đã giết người Ê-díp-tô kia chăng? Môi-se sợ, nói rằng: Chắc thật, việc nầy phải lậu rồi. [15] Pha-ra-ôn hay việc đó, thì tìm giết Môi-se; nhưng người trốn đi khỏi mặt Pha-ra-ôn, dừng chân tại xứ Ma-đi-an, và ngồi gần bên một cái giếng. [16] Vả, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an có bảy con gái; các nàng đó đến giếng xách nước đổ đầy máng đặng cho bầy chiên cha mình uống. [17] Nhưng các kẻ chăn chiên đến đuổi đi; Môi-se bèn đứng dậy, binh vực các nàng đó và cho những bầy chiên uống nước. [18] Khi mấy nàng trở về nhà Rê-u-ên, cha mình, thì người hỏi rằng: Sao bữa nay các con về sớm vậy? [19] Thưa rằng: Một người Ê-díp-tô cứu chúng tôi ra khỏi tay bọn chăn chiên, và cũng có xách nước nhiều quá cho bầy chiên uống nữa. [20] Cha lại hỏi rằng: Người đó bây giờ ở đâu? Sao các con bỏ người đi? Hãy mời đến đặng ăn bánh. [21] Môi-se ưng ở cùng người nầy, người bèn gả Sê-phô-ra, con gái mình, cho Môi-se. [22] Nàng sanh một con trai; Môi-se đặt tên là Ghẹt-sôn vì nói rằng: Tôi kiều ngụ nơi ngoại bang. [23] Sau cách lâu, vua xứ Ê-díp-tô băng; dân Y-sơ-ra-ên than thở kêu van vì phải phục dịch khổ sở; tiếng kêu van lên thấu Ðức Chúa Trời. [24] Ngài nghe tiếng than thở chúng, nhớ đến sự giao ước mình kết lập cùng Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. [25] Ðức Chúa Trời đoái lại dân Y-sơ-ra-ên, nhận biết cảnh ngộ của chúng. |
Chapter 3
Chương 3
[1] Now Moses was tending the flock of Jethro his father-in-law, the priest of Midian, and he led the flock to the far side of the desert and came to Horeb, the mountain of God.
[2] There the angel of the LORD appeared to him in flames of fire from within a bush. Moses saw that though the bush was on fire it did not burn up. [3] So Moses thought, "I will go over and see this strange sight-- why the bush does not burn up." [4] When the LORD saw that he had gone over to look, God called to him from within the bush, "Moses! Moses!" And Moses said, "Here I am." [5] "Do not come any closer," God said. "Take off your sandals, for the place where you are standing is holy ground." [6] Then he said, "I am the God of your father, the God of Abraham, the God of Isaac and the God of Jacob." At this, Moses hid his face, because he was afraid to look at God. [7] The LORD said, "I have indeed seen the misery of my people in Egypt. I have heard them crying out because of their slave drivers, and I am concerned about their suffering. [8] So I have come down to rescue them from the hand of the Egyptians and to bring them up out of that land into a good and spacious land, a land flowing with milk and honey-- the home of the Canaanites, Hittites, Amorites, Perizzites, Hivites and Jebusites. [9] And now the cry of the Israelites has reached me, and I have seen the way the Egyptians are oppressing them. [10] So now, go. I am sending you to Pharaoh to bring my people the Israelites out of Egypt." [11] But Moses said to God, "Who am I, that I should go to Pharaoh and bring the Israelites out of Egypt?" [12] And God said, "I will be with you. And this will be the sign to you that it is I who have sent you: When you have brought the people out of Egypt, you will worship God on this mountain." [13] Moses said to God, "Suppose I go to the Israelites and say to them, 'The God of your fathers has sent me to you,' and they ask me, 'What is his name?' Then what shall I tell them?" [14] God said to Moses, "I AM WHO I AM. This is what you are to say to the Israelites: 'I AM has sent me to you.'" [15] God also said to Moses, "Say to the Israelites, 'The LORD, the God of your fathers-- the God of Abraham, the God of Isaac and the God of Jacob-- has sent me to you.' This is my name forever, the name by which I am to be remembered from generation to generation. [16] "Go, assemble the elders of Israel and say to them, 'The LORD, the God of your fathers-- the God of Abraham, Isaac and Jacob-- appeared to me and said: I have watched over you and have seen what has been done to you in Egypt. [17] And I have promised to bring you up out of your misery in Egypt into the land of the Canaanites, Hittites, Amorites, Perizzites, Hivites and Jebusites-- a land flowing with milk and honey.' [18] "The elders of Israel will listen to you. Then you and the elders are to go to the king of Egypt and say to him, 'The LORD, the God of the Hebrews, has met with us. Let us take a three-day journey into the desert to offer sacrifices to the LORD our God.' [19] But I know that the king of Egypt will not let you go unless a mighty hand compels him. [20] So I will stretch out my hand and strike the Egyptians with all the wonders that I will perform among them. After that, he will let you go. [21] "And I will make the Egyptians favorably disposed toward this people, so that when you leave you will not go empty-handed. [22] Every woman is to ask her neighbor and any woman living in her house for articles of silver and gold and for clothing, which you will put on your sons and daughters. And so you will plunder the Egyptians." |
[1] Vả, Môi-se chăn bầy chiên cho Giê-trô, ông gia mình, là thầy tế lễ tại xứ Ma-đi-an; dẫn bầy chiên qua phía bên kia đồng vắng, đến núi của Ðức Chúa Trời, là núi Hô-rếp.
[2] Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va hiện ra cùng người trong ngọn lửa, giữa bụi gai kia. Người nhìn thấy cả bụi gai đang cháy, nhưng không hề tàn. [3] Môi-se bèn nói rằng: Ta hãy tẻ bước lại đặng xem sự lạ lớn nầy, vì cớ sao bụi gai chẳng tàn chút nào. [4] Ðức Giê-hô-va thấy người tẻ bước lại xem, Ðức Chúa Trời bèn ở giữa bụi gai gọi rằng: Hỡi Môi-se, hỡi Môi-se! Người thưa rằng: Có tôi đây! [5] Ðức Chúa Trời phán rằng: Chớ lại gần chốn nầy, Hãy cổi giầy ngươi ra, vì chỗ ngươi đang đứng là đất thánh. [6] Rồi Ngài lại nói: Ta là Ðức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Y-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp. Môi-se liền che mặt, vì sợ nhìn đến Ðức Chúa Trời. [7] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Ta đã thấy rõ ràng sự cực khổ của dân ta tại xứ Ê-díp-tô, và có nghe thấu tiếng kêu rêu vì cớ người đốc công của nó; phải, ta biết được nỗi đau đớn của nó. [8] Ta ngự xuống đặng cứu dân nầy khỏi tay người Ê-díp-tô, dẫn từ xứ ấy lên đến một xứ kia đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật, tức là nơi dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít ở. [9] Nầy, tiếng kêu rêu của dân Y-sơ-ra-ên thấu đến ta, và ta đã thấy dân Ê-díp-tô hà hiếp chúng nó thể nào; [10] vậy bây giờ, hãy lại đây, đặng ta sai ngươi đi đến Pha-ra-ôn, để dắt dân ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [11] Môi-se bèn thưa rằng: Tôi là ai, dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô? [12] Ðức Chúa Trời phán rằng: Ta sẽ ở cùng ngươi; nầy là điều làm dấu cho ngươi biết rằng ta đã sai ngươi đi: Khi ngươi dắt dân sự ra khỏi xứ Ê-díp-tô rồi, thì các ngươi sẽ phụng sự Ðức Chúa Trời tại trên núi nầy. [13] Môi-se thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Y-sơ-ra-ên, nói cùng họ rằng: Ðức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? thì tôi nói với họ làm sao? [14] Ðức Chúa Trời phán rằng: Ta là Ðấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Ðấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi. [15] Ngươi hãy cầm lấy gậy nầy nơi tay, để dùng làm các dấu lạ. [16] Người ta chẳng phát rơm cho, lại cứ biểu chúng tôi rằng: Hãy làm gạch đi! Nầy tôi tớ của bệ hạ đây bị đòn; lỗi tại dân của bệ hạ. [17] Ðức Chúa Trời lại phán cùng Môi-se rằng: Ngươi sẽ nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Y-sác, Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, sai ta đến cùng các ngươi. Ấy đó là danh đời đời của ta, ấy sẽ là kỷ niệm của ta trải qua các đời. [18] Hãy đi, hội hiệp các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, mà nói cùng họ rằng: Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Y-sác, Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra cùng ta mà phán rằng: Thật vậy, ta đã thăm viếng các ngươi, thấy điều họ đãi các ngươi tại xứ Ê-díp-tô, [19] nên ta đã phán rằng: Ta sẽ rút các ngươi ra khỏi cảnh khổ tại xứ Ê-díp-tô, đặng đem lên xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, tức là một xứ đượm sữa và mật. [20] Dân sự sẽ vâng theo lời ngươi; vậy, ngươi và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên hãy đi yết-kiến vua xứ Ê-díp-tô mà tâu rằng: Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, đã hiện ra cùng chúng tôi. Vây bây giờ, xin để cho chúng tôi đi đến nơi đồng vắng, cách chừng ba ngày đường đặng dâng của lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi. [21] Vả, ta biết rằng dẫu lấy quyền lực ép buộc vua Ê-díp-tô, thì người cũng chẳng bao giờ cho các ngươi đi! [22] Nhưng ta sẽ giơ tay ra hành xứ Ê-díp-tô bằng các phép lạ ta làm giữa xứ đó, sau rồi họ sẽ cho các ngươi đi. |
Chapter 4
Chương 4
[1] Moses answered, "What if they do not believe me or listen to me and say, 'The LORD did not appear to you'?" [2] Then the LORD said to him, "What is that in your hand?" "A staff," he replied. [3] The LORD said, "Throw it on the ground." Moses threw it on the ground and it became a snake, and he ran from it. [4] Then the LORD said to him, "Reach out your hand and take it by the tail." So Moses reached out and took hold of the snake and it turned back into a staff in his hand. [5] "This," said the LORD, "is so that they may believe that the LORD, the God of their fathers-- the God of Abraham, the God of Isaac and the God of Jacob-- has appeared to you." [6] Then the LORD said, "Put your hand inside your cloak." So Moses put his hand into his cloak, and when he took it out, it was leprous, like snow. [7] "Now put it back into your cloak," he said. So Moses put his hand back into his cloak, and when he took it out, it was restored, like the rest of his flesh. [8] Then the LORD said, "If they do not believe you or pay attention to the first miraculous sign, they may believe the second. [9] But if they do not believe these two signs or listen to you, take some water from the Nile and pour it on the dry ground. The water you take from the river will become blood on the ground." [10] Moses said to the LORD, "O Lord, I have never been eloquent, neither in the past nor since you have spoken to your servant. I am slow of speech and tongue." [11] The LORD said to him, "Who gave man his mouth? Who makes him deaf or mute? Who gives him sight or makes him blind? Is it not I, the LORD? [12] Now go; I will help you speak and will teach you what to say." [13] But Moses said, "O Lord, please send someone else to do it." [14] Then the LORD's anger burned against Moses and he said, "What about your brother, Aaron the Levite? I know he can speak well. He is already on his way to meet you, and his heart will be glad when he sees you. [15] You shall speak to him and put words in his mouth; I will help both of you speak and will teach you what to do. [16] He will speak to the people for you, and it will be as if he were your mouth and as if you were God to him. [17] But take this staff in your hand so you can perform miraculous signs with it." [18] Then Moses went back to Jethro his father-in-law and said to him, "Let me go back to my own people in Egypt to see if any of them are still alive." Jethro said, "Go, and I wish you well." [19] Now the LORD had said to Moses in Midian, "Go back to Egypt, for all the men who wanted to kill you are dead." [20] So Moses took his wife and sons, put them on a donkey and started back to Egypt. And he took the staff of God in his hand. [21] The LORD said to Moses, "When you return to Egypt, see that you perform before Pharaoh all the wonders I have given you the power to do. But I will harden his heart so that he will not let the people go. [22] Then say to Pharaoh, 'This is what the LORD says: Israel is my firstborn son, [23] and I told you, "Let my son go, so he may worship me." But you refused to let him go; so I will kill your firstborn son.'" [24] At a lodging place on the way, the LORD met [Moses] and was about to kill him. [25] But Zipporah took a flint knife, cut off her son's foreskin and touched [Moses'] feet with it. "Surely you are a bridegroom of blood to me," she said. [26] So the LORD let him alone. (At that time she said "bridegroom of blood," referring to circumcision.) [27] The LORD said to Aaron, "Go into the desert to meet Moses." So he met Moses at the mountain of God and kissed him. [28] Then Moses told Aaron everything the LORD had sent him to say, and also about all the miraculous signs he had commanded him to perform. [29] Moses and Aaron brought together all the elders of the Israelites, [30] and Aaron told them everything the LORD had said to Moses. He also performed the signs before the people, [31] and they believed. And when they heard that the LORD was concerned about them and had seen their misery, they bowed down and worshiped.
|
[1] Ta sẽ làm cho dân nầy được ơn trước mắt người Ê-díp-tô; vậy, khi nào các ngươi ra đi, thì sẽ chẳng ra đi tay không;
[2] nhưng mỗi người đàn bà sẽ hỏi xin người nữ lân cận, cùng kẻ ở tạm nhà mình những đồ bằng vàng, bằng bạc và quần áo, mặc lấy cho con trai con gái mình. Các ngươi sẽ lột trần dân Ê-díp-tô là như vậy. [3] Môi-se thưa rằng: Nhưng dân đó sẽ chẳng tin và chẳng vâng lời tôi, vì sẽ nói rằng: Ðức Giê-hô-va chẳng có hiện ra cùng ngươi đâu. [4] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Trong tay ngươi cầm vật chi? Thưa rằng: Một cây gậy. [5] Phán rằng: Hãy ném xuống đất đi. Người bèn ném xuống đất, gậy hóa ra một con rắn; Môi-se chạy trốn nó. [6] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy giơ tay ngươi ra nắm đuôi nó. Người giơ tay ra nắm, thì nó hườn lại cây gậy trong tay. [7] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Ấy để cho chúng nó tin rằng Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình, là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Y-sác, Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra cùng ngươi. [8] Ðức Giê-hô-va lại phán rằng: Hãy đặt tay ngươi vào lòng. Người liền đặt vào, rồi lấy ra. Nầy, tay người nổi phung trắng như tuyết. [9] Ðoạn, Ngài phán rằng: Hãy đặt tay ngươi vào lòng lại; người bèn đặt vào, rồi lấy ra. Kìa, tay trở lại như thịt mình. [10] Lại phán: Nếu khi nào dân đó chẳng tin ngươi và chẳng vâng theo tiếng của dấu thứ nhất, thì sẽ tin theo tiếng của dấu thứ nhì. [11] Vả lại, nếu dân chẳng tin cả hai dấu nầy, và không vâng theo lời ngươi, thì hãy lấy nước dưới sông mà làm tràn ngập trên mặt đất; nước mà ngươi đã lấy dưới sông lên đó, sẽ thành máu trên mặt đất vậy. [12] Môi-se thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Ôi! lạy Chúa, từ hôm qua, hôm kia, hay là từ lúc Chúa phán dạy kẻ tôi tớ Chúa, tôi vẫn chẳng phải một tay nói giỏi, vì miệng và lưỡi tôi hay ngập ngừng. [13] Ðức Giê-hô-va bèn phán rằng: Ai tạo miệng loài người ra? hay là ai đã làm câm, làm điếc, làm sáng, làm mờ? Có phải ta là Ðức Giê-hô-va chăng? [14] Vậy bây giờ, hãy đi; ta sẽ ở cùng miệng ngươi và dạy ngươi những lời phải nói. [15] Môi-se thưa rằng: Ôi! lạy Chúa, Chúa muốn sai ai đi, thì sai. [16] Ðức Giê-hô-va bèn nổi giận cùng Môi-se mà phán rằng: Có phải A-rôn, người Lê-vi, là anh ngươi chăng? Ta biết người đó có tài nói giỏi, và kìa, người đang đi đến đón ngươi kìa; khi thấy ngươi, chắc sẽ vui mừng trong lòng. [17] Vậy ngươi hãy nói cùng người, và sắp để những lời trong miệng người. Khi hai ngươi nói, ta sẽ ở cùng miệng ngươi và miệng anh ngươi, dạy các ngươi những điều gì phải làm. [18] Ấy là người đó sẽ nói cùng dân sự thế cho ngươi, dùng làm miệng ngươi, còn ngươi sẽ dường như Ðức Chúa Trời cho người vậy. [19] Môi-se bèn đi, trở về Giê-trô, ông gia mình, mà thưa rằng: Xin cha hãy cho tôi trở về nơi anh em tôi tại xứ Ê-díp-tô, đặng thăm thử họ còn sống chăng. Giê-trô bèn nói cùng Môi-se rằng: Con hãy đi bình yên. [20] Vả, Ðức Giê-hô-va có phán cùng Môi-se tại Ma-đi-an rằng: Hãy trở về xứ Ê-díp-tô, vì mấy người tìm giết ngươi đã chết hết rồi. [21] Môi-se bèn đỡ vợ và con mình lên lưng lừa, trở về xứ Ê-díp-tô. Người cũng cầm cây gậy của Ðức Chúa Trời theo trong tay. [22] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Khi trở về xứ Ê-díp-tô, hãy cẩn thận về các dấu lạ của ta đã giao nơi tay ngươi mà làm trước mặt Pha-ra-ôn; nhưng ta sẽ khiến người cứng lòng chẳng cho dân sự đi. [23] Vậy, ngươi phải tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Y-sơ-ra-ên là con ta, tức trưởng nam ta, [24] nên ta có phán cùng ngươi rằng: Hãy cho con ta đi, để nó phụng sự ta, mà ngươi đã từ chối không cho nó đi. Nầy, ta sẽ giết con trai ngươi, là con trưởng nam của ngươi. [25] Vả, đang khi đi đường, Ðức Giê-hô-va hiện ra trước mặt Môi-se nơi nhà quán, và kiếm thế giết người đi. [26] Sê-phô-ra lấy con dao bằng đá, cắt dương bì của con mình, và quăng dưới chân Môi-se, mà nói rằng: Thật, chàng là huyết lang cho tôi! [27] Ðức Giê-hô-va tha chồng; nàng bèn nói rằng: Huyết lang! là vì cớ phép cắt bì. [28] Ðức Giê-hô-va phán cùng A-rôn rằng: Hãy đi đến đồng vắng, đón rước Môi-se. A-rôn bèn đi, gặp Môi-se tại núi của Ðức Chúa Trời, và hôn người. [29] Môi-se thuật lại cho A-rôn mọi lời của Ðức Giê-hô-va sai mình truyền, và các dấu lạ mà Ngài đã dạy mình làm. [30] Vậy, Môi-se đi cùng A-rôn, nhóm lại các trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên. [31] A-rôn bèn thuật hết các lời của Ðức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se, và làm những dấu lạ trước mặt dân sự. |
Chapter 5
Chương 5
[1] Afterward Moses and Aaron went to Pharaoh and said, "This is what the LORD, the God of Israel, says: 'Let my people go, so that they may hold a festival to me in the desert.'"
[2] Pharaoh said, "Who is the LORD, that I should obey him and let Israel go? I do not know the LORD and I will not let Israel go." [3] Then they said, "The God of the Hebrews has met with us. Now let us take a three-day journey into the desert to offer sacrifices to the LORD our God, or he may strike us with plagues or with the sword." [4] But the king of Egypt said, "Moses and Aaron, why are you taking the people away from their labor? Get back to your work!" [5] Then Pharaoh said, "Look, the people of the land are now numerous, and you are stopping them from working." [6] That same day Pharaoh gave this order to the slave drivers and foremen in charge of the people: [7] "You are no longer to supply the people with straw for making bricks; let them go and gather their own straw. [8] But require them to make the same number of bricks as before; don't reduce the quota. They are lazy; that is why they are crying out, 'Let us go and sacrifice to our God.' [9] Make the work harder for the men so that they keep working and pay no attention to lies." [10] Then the slave drivers and the foremen went out and said to the people, "This is what Pharaoh says: 'I will not give you any more straw. [11] Go and get your own straw wherever you can find it, but your work will not be reduced at all.'" [12] So the people scattered all over Egypt to gather stubble to use for straw. [13] The slave drivers kept pressing them, saying, "Complete the work required of you for each day, just as when you had straw." [14] The Israelite foremen appointed by Pharaoh's slave drivers were beaten and were asked, "Why didn't you meet your quota of bricks yesterday or today, as before?" [15] Then the Israelite foremen went and appealed to Pharaoh: "Why have you treated your servants this way? [16] Your servants are given no straw, yet we are told, 'Make bricks!' Your servants are being beaten, but the fault is with your own people." [17] Pharaoh said, "Lazy, that's what you are-- lazy! That is why you keep saying, 'Let us go and sacrifice to the LORD.' [18] Now get to work. You will not be given any straw, yet you must produce your full quota of bricks." [19] The Israelite foremen realized they were in trouble when they were told, "You are not to reduce the number of bricks required of you for each day." [20] When they left Pharaoh, they found Moses and Aaron waiting to meet them, [21] and they said, "May the LORD look upon you and judge you! You have made us a stench to Pharaoh and his officials and have put a sword in their hand to kill us." [22] Moses returned to the LORD and said, "O Lord, why have you brought trouble upon this people? Is this why you sent me? [23] Ever since I went to Pharaoh to speak in your name, he has brought trouble upon this people, and you have not rescued your people at all." |
[1] Chúng bèn tin, hiểu rằng Ðức Giê-hô-va đã thăm viếng dân Y-sơ-ra-ên, và thấy điều cực khổ của mình; chúng bèn cúi đầu và thờ lạy.
[2] Kế sau, Môi-se và A-rôn đến tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Hãy cho dân ta đi, đặng nó giữ một lễ cho ta tại đồng vắng. [3] Nhưng Pha-ra-ôn đáp rằng: Giê-hô-va là ai mà trẫm phải vâng lời người, để cho dân Y-sơ-ra-ên đi? Trẫm chẳng biết Giê-hô-va nào hết; cũng chẳng cho dân Y-sơ-ra-ên đi nữa. [4] Môi-se và A-rôn tâu rằng: Ðức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ đã đến cùng chúng tôi; xin hãy cho phép chúng tôi đi vào nơi đồng vắng, cách chừng ba ngày đường, đặng dâng tế lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi, kẻo Ngài khiến bịnh dịch hay việc gươm dao hành chúng tôi chăng. [5] Vua xứ Ê-díp-tô phán rằng: Hỡi Môi-se và A-rôn, sao các ngươi xui cho dân chúng bỏ công việc như vậy? Hãy đi làm công việc mình đi! [6] Pha-ra-ôn lại phán rằng: Kìa, dân sự trong xứ bây giờ đông đúc quá, hai người làm cho chúng nó phải nghỉ việc ư! [7] Trong ngày đó, Pha-ra-ôn truyền lịnh cho các đốc dịch và phái viên rằng: [8] Các ngươi đừng phát rơm cho dân sự làm gạch như lúc trước nữa; chúng nó phải tự đi kiếm góp lấy. [9] Nhưng các ngươi hãy hạn số gạch y như cũ, chớ trừ bớt chi cả; vì họ biếng nhác, lấy cớ mà đồng kêu lên rằng: Hè! đi dâng tế lễ cho Ðức Chúa Trời chúng ta! [10] Hãy gán công việc nặng cho chúng nó, hầu cho chúng nó mắc công việc, chẳng xiêu về lời giả dối nữa. [11] Các đốc dịch và phái viên bèn ra, nói cùng dân chúng rằng: Pha-ra-ôn có phán như vầy: Ta chẳng cho các ngươi rơm nữa. [12] Hãy tự đi kiếm lấy rơm ở đâu đi; song chẳng trừ bớt công việc các ngươi chút nào. [13] Bấy giờ, dân chúng bèn đi rải khắp xứ Ê-díp-tô, đặng góp gốc rạ thế cho rơm. [14] Các đốc dịch lại hối rằng: Hãy làm cho xong phần việc các ngươi, y cố định, ngày nào cho rồi ngày nấy, cũng như khi có phát rơm. [15] Những phái viên trong vòng dân Y-sơ-ra-ên mà các đốc dịch của Pha-ra-ôn đã lập lên trên dân đó, bị đánh và quở rằng: Sao hôm qua và ngày nay, các ngươi chẳng làm xong phần định về việc mình làm gạch y như trước? [16] Các phái viên của dân Y-sơ-ra-ên bèn đến kêu cùng Pha-ra-ôn rằng: Sao bệ hạ đãi kẻ tôi tớ như vậy? [17] Nhưng vua đáp rằng: Các ngươi là đồ biếng nhác, đồ biếng nhác! Bởi cớ đó nên nói với nhau rằng: Hè! đi tế Ðức Giê-hô-va! [18] Vậy bây giờ, cứ đi làm việc đi, người ta chẳng phát rơm cho đâu, nhưng các ngươi phải nộp gạch cho đủ số. [19] Vậy, các phái viên của dân Y-sơ-ra-ên lấy làm bối rối, vì người ta có nói cùng mình rằng: Các ngươi chẳng được trừ số gạch đã định cho mình ngày nào rồi ngày nấy. [20] Khi lui ra khỏi Pha-ra-ôn thì họ gặp Môi-se và A-rôn đợi tại đó, [21] bèn nói rằng: Hai ngươi đã làm cho chúng tôi ra mùi hôi hám trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần, mà trao thanh gươm vào tay họ đặng giết chúng tôi. Cầu xin Ðức Giê-hô-va xem xét và xử đoán hai ngươi! [22] Môi-se bèn trở về cùng Ðức Giê-hô-va mà thưa rằng: Lạy Chúa! sao Chúa đã làm hại cho dân sự nầy? Chúa sai tôi đến mà chi? [23] Từ khi tôi đi yết kiến Pha-ra-ôn đặng nhân danh Chúa mà nói, thì người lại ngược đãi dân nầy, và Chúa chẳng giải cứu dân của Chúa. |
Chapter 6
Chương 6
[1] Then the LORD said to Moses, "Now you will see what I will do to Pharaoh: Because of my mighty hand he will let them go; because of my mighty hand he will drive them out of his country."
[2] God also said to Moses, "I am the LORD. [3] I appeared to Abraham, to Isaac and to Jacob as God Almighty, but by my name the LORD I did not make myself known to them. [4] I also established my covenant with them to give them the land of Canaan, where they lived as aliens. [5] Moreover, I have heard the groaning of the Israelites, whom the Egyptians are enslaving, and I have remembered my covenant. [6] "Therefore, say to the Israelites: 'I am the LORD, and I will bring you out from under the yoke of the Egyptians. I will free you from being slaves to them, and I will redeem you with an outstretched arm and with mighty acts of judgment. [7] I will take you as my own people, and I will be your God. Then you will know that I am the LORD your God, who brought you out from under the yoke of the Egyptians. [8] And I will bring you to the land I swore with uplifted hand to give to Abraham, to Isaac and to Jacob. I will give it to you as a possession. I am the LORD.'" [9] Moses reported this to the Israelites, but they did not listen to him because of their discouragement and cruel bondage. [10] Then the LORD said to Moses, [11] "Go, tell Pharaoh king of Egypt to let the Israelites go out of his country." [12] But Moses said to the LORD, "If the Israelites will not listen to me, why would Pharaoh listen to me, since I speak with faltering lips?" [13] Now the LORD spoke to Moses and Aaron about the Israelites and Pharaoh king of Egypt, and he commanded them to bring the Israelites out of Egypt. [14] These were the heads of their families: The sons of Reuben the firstborn son of Israel were Hanoch and Pallu, Hezron and Carmi. These were the clans of Reuben. [15] The sons of Simeon were Jemuel, Jamin, Ohad, Jakin, Zohar and Shaul the son of a Canaanite woman. These were the clans of Simeon. [16] These were the names of the sons of Levi according to their records: Gershon, Kohath and Merari. Levi lived 137 years. [17] The sons of Gershon, by clans, were Libni and Shimei. [18] The sons of Kohath were Amram, Izhar, Hebron and Uzziel. Kohath lived 133 years. [19] The sons of Merari were Mahli and Mushi. These were the clans of Levi according to their records. [20] Amram married his father's sister Jochebed, who bore him Aaron and Moses. Amram lived 137 years. [21] The sons of Izhar were Korah, Nepheg and Zicri. [22] The sons of Uzziel were Mishael, Elzaphan and Sithri. [23] Aaron married Elisheba, daughter of Amminadab and sister of Nahshon, and she bore him Nadab and Abihu, Eleazar and Ithamar. [24] The sons of Korah were Assir, Elkanah and Abiasaph. These were the Korahite clans. [25] Eleazar son of Aaron married one of the daughters of Putiel, and she bore him Phinehas. These were the heads of the Levite families, clan by clan. [26] It was this same Aaron and Moses to whom the LORD said, "Bring the Israelites out of Egypt by their divisions." [27] They were the ones who spoke to Pharaoh king of Egypt about bringing the Israelites out of Egypt. It was the same Moses and Aaron. [28] Now when the LORD spoke to Moses in Egypt, [29] he said to him, "I am the LORD. Tell Pharaoh king of Egypt everything I tell you." [30] But Moses said to the LORD, "Since I speak with faltering lips, why would Pharaoh listen to me?" |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Bây giờ ngươi hãy xem những điều ta sẽ hành Pha-ra-ôn; vì nhờ tay quyền năng ép buộc vua đó sẽ tha và đuổi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ mình.
[2] Ðức Chúa Trời lại phán cùng Môi-se rằng: Ta là Ðức Giê-hô-va. [3] Ta đã hiện ra cùng Áp-ra-ham, cùng Y-sác, và cùng Gia-cốp, tỏ mình là Ðức Chúa Trời toàn năng; song về danh ta là Giê-hô-va, thì ta chưa hề tỏ cho họ biết. [4] Ta cũng có lập giao ước cùng họ, để ban xứ Ca-na-an cho, là xứ họ đã kiều ngụ như khách ngoại bang. [5] Ta cũng có nghe lời than thở của dân Y-sơ-ra-ên bị người Ê-díp-tô bắt làm tôi mọi, bèn nhớ lại sự giao ước của ta. [6] Vậy nên, ngươi hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Ta là Ðức Giê-hô-va sẽ rút các ngươi khỏi gánh nặng mà người Ê-díp-tô đã gán cho, cùng giải thoát khỏi vòng tôi mọi; ta sẽ giơ thẳng tay ra, dùng sự đoán phạt nặng mà chuộc các ngươi. [7] Ta sẽ nhận các ngươi làm dân ta, và ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của các ngươi; các ngươi sẽ biết ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi, đã rút các ngươi khỏi gánh nặng của người Ê-díp-tô. [8] Ta sẽ dắt các ngươi vào xứ ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, cho Y-sác, cho Gia-cốp, mà cho các ngươi xứ đó làm cơ nghiệp: Ta là Ðức Giê-hô-va. [9] Môi-se nói lại như vậy cho dân Y-sơ-ra-ên; nhưng vì bị sầu não và việc tôi mọi nặng nề, nên chẳng nghe Môi-se chút nào. [10] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: [11] Hãy đi tâu cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, phải cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ mình. [12] Nhưng Môi-se thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Nầy, tôi là một kẻ vụng miệng; dân Y-sơ-ra-ên chẳng có nghe lời tôi, Pha-ra-ôn há sẽ khứng nghe lời tôi sao? [13] Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn, bèn truyền cho hai người phải đi đến dân Y-sơ-ra-ên và Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, đặng đem dân đó ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [14] Ðây là các trưởng tộc của những họ hàng dân Y-sơ-ra-ên. Các con trai của Ru-bên, tức là trưởng nam Y-sơ-ra-ên, là: Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. Ðó là những họ hàng của Ru-bên. [15] Các con trai của Si-mê-ôn là: Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ là con của vợ xứ Ca-na-an. Ðó là họ hàng của Si-mê-ôn. [16] Ðây là tên các con trai của Lê-vi, tùy theo dòng dõi của họ: Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. Lê-vi hưởng thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi. [17] Các con trai của Ghẹt-sôn, tùy theo họ hàng mình: Líp-ni và Si-mê-y. [18] Các con trai của Kê-hát là: Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. Kê-hát hưởng thọ được một trăm ba mươi ba tuổi. [19] Các con trai của Mê-ra-ri là: Mách-li, và Mu-si. Ðó là các họ hàng của Lê-vi, tùy theo dòng dõi của họ. [20] Vả, Am-ram lấy Giô-kê-bết, là cô mình, làm vợ; nàng sanh cho người A-rôn và Môi-se. Am-ram hưởng thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi. [21] Các con trai của Dít-sê-ha là: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri. [22] Các con trai của U-xi-ên là: Mi-sa-ên, Ên-sa-phan, và Sít-ri. [23] A-rôn cưới Ê-li-sê-ba, con gái của A-mi-na-đáp, em của Na-ha-sôn; nàng sanh cho người Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. [24] Các con trai của Cô-rê là: Át-si, Ên-ca-na và A-bi-a-sáp. Ðó là các họ hàng của dân Cô-rê. [25] Ê-lê-a-sa, con trai của A-rôn, cưới con gái của Phu-ti-ên làm vợ; nàng sanh Phi-nê-a cho người. Ðó là các trưởng tộc của nhà tổ phụ người Lê-vi, tùy theo họ hàng mình vậy. [26] Ấy, A-rôn và Môi-se nầy, tức là người mà Ðức Giê-hô-va đã phán dạy rằng: Hãy tùy theo cơ đội, đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [27] Ấy là hai người tâu cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, đặng đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ đó; ấy là Môi-se và A-rôn nầy. [28] Vậy, trong ngày Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại xứ Ê-díp-tô, [29] thì Ngài có truyền rằng: Ta là Ðức Giê-hô-va, hãy tâu lại cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, hết thảy mọi lời ta sẽ phán cùng ngươi. [30] Môi-se bèn thưa rằng: Nầy, tôi là người vụng miệng: Pha-ra-ôn há sẽ nghe tôi sao? |
Chapter 7
Chương 7
[1] Then the LORD said to Moses, "See, I have made you like God to Pharaoh, and your brother Aaron will be your prophet.
[2] You are to say everything I command you, and your brother Aaron is to tell Pharaoh to let the Israelites go out of his country. [3] But I will harden Pharaoh's heart, and though I multiply my miraculous signs and wonders in Egypt, [4] he will not listen to you. Then I will lay my hand on Egypt and with mighty acts of judgment I will bring out my divisions, my people the Israelites. [5] And the Egyptians will know that I am the LORD when I stretch out my hand against Egypt and bring the Israelites out of it." [6] Moses and Aaron did just as the LORD commanded them. [7] Moses was eighty years old and Aaron eighty-three when they spoke to Pharaoh. [8] The LORD said to Moses and Aaron, [9] "When Pharaoh says to you, 'Perform a miracle,' then say to Aaron, 'Take your staff and throw it down before Pharaoh,' and it will become a snake." [10] So Moses and Aaron went to Pharaoh and did just as the LORD commanded. Aaron threw his staff down in front of Pharaoh and his officials, and it became a snake. [11] Pharaoh then summoned wise men and sorcerers, and the Egyptian magicians also did the same things by their secret arts: [12] Each one threw down his staff and it became a snake. But Aaron's staff swallowed up their staffs. [13] Yet Pharaoh's heart became hard and he would not listen to them, just as the LORD had said. [14] Then the LORD said to Moses, "Pharaoh's heart is unyielding; he refuses to let the people go. [15] Go to Pharaoh in the morning as he goes out to the water. Wait on the bank of the Nile to meet him, and take in your hand the staff that was changed into a snake. [16] Then say to him, 'The LORD, the God of the Hebrews, has sent me to say to you: Let my people go, so that they may worship me in the desert. But until now you have not listened. [17] This is what the LORD says: By this you will know that I am the LORD: With the staff that is in my hand I will strike the water of the Nile, and it will be changed into blood. [18] The fish in the Nile will die, and the river will stink; the Egyptians will not be able to drink its water.'" [19] The LORD said to Moses, "Tell Aaron, 'Take your staff and stretch out your hand over the waters of Egypt-- over the streams and canals, over the ponds and all the reservoirs'-- and they will turn to blood. Blood will be everywhere in Egypt, even in the wooden buckets and stone jars." [20] Moses and Aaron did just as the LORD had commanded. He raised his staff in the presence of Pharaoh and his officials and struck the water of the Nile, and all the water was changed into blood. [21] The fish in the Nile died, and the river smelled so bad that the Egyptians could not drink its water. Blood was everywhere in Egypt. [22] But the Egyptian magicians did the same things by their secret arts, and Pharaoh's heart became hard; he would not listen to Moses and Aaron, just as the LORD had said. [23] Instead, he turned and went into his palace, and did not take even this to heart. [24] And all the Egyptians dug along the Nile to get drinking water, because they could not drink the water of the river. [25] Seven days passed after the LORD struck the Nile. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy xem, ta lập ngươi như là Ðức Chúa Trời cho Pha-ra-ôn, còn A-rôn, anh ngươi, sẽ làm kẻ tiên tri của ngươi.
[2] Hãy nói lại mọi lời ta sẽ truyền dạy ngươi, rồi A-rôn, anh ngươi, sẽ tâu cùng Pha-ra-ôn, đặng người thả dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ mình. [3] Ta sẽ làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, và thêm nhiều dấu lạ phép kỳ của ta trong xứ Ê-díp-tô. [4] Nhưng Pha-ra-ôn sẽ chẳng nghe các ngươi đâu; ta sẽ tra tay vào đất Ê-díp-tô, dùng những sự đoán-phạt nằng-nề, đặng rút khỏi xứ đó các quân đội ta, là dân Y-sơ-ra-ên. [5] Khi nào ta tra tay vào xứ Ê-díp-tô mà rút dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa vòng người Ê-díp-tô, thì họ sẽ biết ta là Ðức Giê-hô-va. [6] Môi-se và A-rôn bèn làm y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn. [7] Vả, khi hai người tâu cùng Pha-ra-ôn, thì Môi-se tuổi đã được tám mươi, còn A-rôn tám mươi ba. [8] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: [9] Khi nào Pha-ra-ôn truyền cho các ngươi: Hãy làm phép lạ đi, thì ngươi sẽ nói cùng A-rôn rằng: Hãy lấy cây gậy của anh, liệng trước mặt Pha-ra-ôn, gậy sẽ hóa thành một con rắn. [10] Vậy, Môi-se và Pha-ra-ôn đến cùng Pha-ra-ôn và làm như lời Ðức Giê-hô đã phán dặn. A-rôn liệng cây gậy mình trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần, gậy liền hóa thành một con rắn. [11] Còn Pha-ra-ôn bèn đòi các bác sĩ và thầy phù chú, là những thuật-sĩ Ê-díp-tô; phần họ, cũng cậy phép phù chú mình mà làm giống in như vậy. [12] Mỗi người liệng gậy mình, liền hóa thành rắn; nhưng gậy của A-rôn nuốt các gậy của họ. [13] Thế mà lòng Pha-ra-ôn vẫn cứng cỏi, chẳng nghe Môi-se và A-rôn, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán. [14] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Pha-ra-ôn đã rắn lòng, từ chối không để cho dân sự đi. [15] Sớm mai Pha-ra-ôn sẽ ngự ra bờ sông, ngươi hãy ra mắt người và cầm theo tay cây gậy đã biến ra con rắn đó. [16] Ngươi hãy tâu rằng: Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, sai tôi đến gần bệ hạ, đặng tâu rằng: Hãy tha cho dân ta đi, để chúng nó hầu việc ta trong đồng vắng; mà đến bây giờ ngươi không nghe ta chút nào. [17] Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Vì việc nầy, ngươi sẽ biết ta là Ðức Giê-hô-va: Nầy ta lấy gậy trong tay ta mà đập nước ở dưới sông, nước sẽ trở nên huyết. [18] Cá dưới sông sẽ chết, và sông sẽ hôi thúi đi; người Ê-díp-tô uống nước sông lấy làm ghê gớm. [19] Ðoạn, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy truyền cho A-rôn rằng: Cầm lấy cây gậy anh, giơ tay ra trên nước xứ Ê-díp-tô, trên rạch, sông, bàu, và khắp mọi nơi có nước trong xứ, hầu cho nước hóa thành huyết; cả xứ Ê-díp-tô, và trong những bình chứa nước bằng gỗ, bằng đá đều sẽ có huyết hết thảy. [20] Vậy, Môi-se và A-rôn bèn làm y như lời Ðức Giê-hô-va đã dặn mình. Trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần, A-rôn giơ gậy lên, đập nước sông, hết thảy nước sông bèn hóa thành huyết. [21] Cá dưới sông chết, nước sông hôi-thúi, người Ê-díp-tô không thể uống được; vậy, huyết lan khắp cả xứ Ê-díp-tô. [22] Song các thuật sĩ cậy phù chú mình cũng làm được như vậy, lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, không nghe Môi-se và A-rôn chút nào, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán. [23] Pha-ra-ôn xây đi về đền mình, lòng chẳng để về mấy điều đó chút nào. [24] Vả, vì hết thảy người Ê-díp-tô uống nước sông chẳng được, nên đào xung quanh sông tìm nước mà uống. [25] Sau khi Ðức Giê-hô-va đập sông thì được bảy ngày. |
Chapter 8
Chương 8
[1] Then the LORD said to Moses, "Go to Pharaoh and say to him, 'This is what the LORD says: Let my people go, so that they may worship me.
[2] If you refuse to let them go, I will plague your whole country with frogs. [3] The Nile will teem with frogs. They will come up into your palace and your bedroom and onto your bed, into the houses of your officials and on your people, and into your ovens and kneading troughs. [4] The frogs will go up on you and your people and all your officials.'" [5] Then the LORD said to Moses, "Tell Aaron, 'Stretch out your hand with your staff over the streams and canals and ponds, and make frogs come up on the land of Egypt.'" [6] So Aaron stretched out his hand over the waters of Egypt, and the frogs came up and covered the land. [7] But the magicians did the same things by their secret arts; they also made frogs come up on the land of Egypt. [8] Pharaoh summoned Moses and Aaron and said, "Pray to the LORD to take the frogs away from me and my people, and I will let your people go to offer sacrifices to the LORD." [9] Moses said to Pharaoh, "I leave to you the honor of setting the time for me to pray for you and your officials and your people that you and your houses may be rid of the frogs, except for those that remain in the Nile." [10] "Tomorrow," Pharaoh said. Moses replied, "It will be as you say, so that you may know there is no one like the LORD our God. [11] The frogs will leave you and your houses, your officials and your people; they will remain only in the Nile." [12] After Moses and Aaron left Pharaoh, Moses cried out to the LORD about the frogs he had brought on Pharaoh. [13] And the LORD did what Moses asked. The frogs died in the houses, in the courtyards and in the fields. [14] They were piled into heaps, and the land reeked of them. [15] But when Pharaoh saw that there was relief, he hardened his heart and would not listen to Moses and Aaron, just as the LORD had said. [16] Then the LORD said to Moses, "Tell Aaron, 'Stretch out your staff and strike the dust of the ground,' and throughout the land of Egypt the dust will become gnats." [17] They did this, and when Aaron stretched out his hand with the staff and struck the dust of the ground, gnats came upon men and animals. All the dust throughout the land of Egypt became gnats. [18] But when the magicians tried to produce gnats by their secret arts, they could not. And the gnats were on men and animals. [19] The magicians said to Pharaoh, "This is the finger of God." But Pharaoh's heart was hard and he would not listen, just as the LORD had said. [20] Then the LORD said to Moses, "Get up early in the morning and confront Pharaoh as he goes to the water and say to him, 'This is what the LORD says: Let my people go, so that they may worship me. [21] If you do not let my people go, I will send swarms of flies on you and your officials, on your people and into your houses. The houses of the Egyptians will be full of flies, and even the ground where they are. [22] "'But on that day I will deal differently with the land of Goshen, where my people live; no swarms of flies will be there, so that you will know that I, the LORD, am in this land. [23] I will make a distinction between my people and your people. This miraculous sign will occur tomorrow.'" [24] And the LORD did this. Dense swarms of flies poured into Pharaoh's palace and into the houses of his officials, and throughout Egypt the land was ruined by the flies. [25] Then Pharaoh summoned Moses and Aaron and said, "Go, sacrifice to your God here in the land." [26] But Moses said, "That would not be right. The sacrifices we offer the LORD our God would be detestable to the Egyptians. And if we offer sacrifices that are detestable in their eyes, will they not stone us? [27] We must take a three-day journey into the desert to offer sacrifices to the LORD our God, as he commands us." [28] Pharaoh said, "I will let you go to offer sacrifices to the LORD your God in the desert, but you must not go very far. Now pray for me." [29] Moses answered, "As soon as I leave you, I will pray to the LORD, and tomorrow the flies will leave Pharaoh and his officials and his people. Only be sure that Pharaoh does not act deceitfully again by not letting the people go to offer sacrifices to the LORD." [30] Then Moses left Pharaoh and prayed to the LORD, [31] and the LORD did what Moses asked: The flies left Pharaoh and his officials and his people; not a fly remained. [32] But this time also Pharaoh hardened his heart and would not let the people go. |
[1] Ðoạn, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy đi ra mắt Pha-ra-ôn, và tâu cùng người rằng: Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Hãy tha cho dân ta đi, để chúng nó hầu việc ta.
[2] Nếu ngươi không tha cho đi, nầy ta sẽ giáng tai nạn ếch nhái khắp bờ cõi ngươi. [3] Sông sẽ sanh đông đúc ếch nhái, bò lên vào cung điện, phòng ngủ, và trên giường người, vào nhà đầy tớ và dân sự ngươi, trong lò bếp, cùng nơi nhồi bột làm bánh của ngươi. [4] Ếch nhái sẽ bò lên mình ngươi, lên mình dân sự và mọi đầy tớ ngươi. [5] Vậy, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy truyền cho A-rôn rằng: Hãy cầm gậy giơ tay ra trên rạch, trên sông và trên bàu, khiến ếch nhái tràn lên xứ Ê-díp-tô. [6] A-rôn giơ tay mình trên các sông rạch xứ Ê-díp-tô, ếch nhái bò lên lan khắp xứ. [7] Các thuật sĩ cũng cậy phù chú mình làm y như vậy, đặng khiến ếch nhái bò lên xứ Ê-díp-tô. [8] Pha-ra-ôn bèn đòi Môi-se và A-rôn mà phán rằng: Hãy cầu nguyện Ðức Giê-hô-va, để Ngài khiến ếch nhái cách xa ta và dân sự ta; thì ta sẽ tha dân Hê-bơ-rơ đi tế Ðức Giê-hô-va. [9] Môi-se bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Xin hãy định chừng nào tôi phải vì bệ hạ, đầy tớ cùng dân sự bệ hạ mà cầu khẩn Ðức Giê-hô-va, để trừ ếch nhái lìa khỏi bệ hạ và cung điện, chỉ còn dưới sông mà thôi. [10] Vua đáp rằng: Ðến ngày mai. Môi-se rằng: Sẽ làm y theo lời, hầu cho bệ hạ biết rằng chẳng có ai giống như Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời chúng tôi. [11] Vậy, ếch nhái sẽ lìa xa bệ hạ, cung điện, tôi tớ, cùng dân sự của bệ hạ; chỉ còn lại dưới sông mà thôi. [12] Môi-se và A-rôn bèn lui ra khỏi Pha-ra-ôn; Môi-se kêu cầu Ðức Giê-hô-va về việc ếch nhái mà Ngài đã khiến đến cho Pha-ra-ôn. [13] Ðức Giê-hô-va làm y theo lời Môi-se; ếch nhái trong nhà, trong làng, ngoài đồng đều chết hết. [14] Người ta dồn ếch nhái lại từ đống, và cả xứ hôi thúi lắm. [15] Nhưng Pha-ra-ôn thấy được khỏi nạn, bèn rắn lòng, chẳng nghe Môi-se và A-rôn chút nào, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán. [16] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy truyền cho A-rôn rằng: Hãy giơ gậy anh ra, đập bụi trên đất: bụi sẽ hóa muỗi khắp cả xứ Ê-díp-tô. [17] Hai người làm y như vậy. A-rôn cầm gậy giơ tay ra, đập bụi trên đất, bụi liền hóa thành muỗi, bu người và súc vật; hết thảy bụi đều hóa thành muỗi trong xứ Ê-díp-tô. [18] Các thuật sĩ cũng muốn cậy phù chú mình làm như vậy, để hóa sanh muỗi, nhưng làm chẳng đặng. Vậy, muỗi bu người và súc vật. [19] Các thuật sĩ bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Ấy là ngón tay của Ðức Chúa Trời; nhưng Pha-ra-ôn cứng lòng, chẳng nghe Môi-se và A-rôn chút nào, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán. [20] Kế đó, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Nầy Pha-ra-ôn sẽ ngự ra mé sông, ngươi hãy dậy sớm, đi ra mắt người, mà tâu rằng: Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Hãy tha cho dân ta đi, để chúng nó hầu việc ta. [21] Vì nếu ngươi không cho đi, nầy, ta sẽ sai ruồi mòng bu nơi ngươi, quần thần, dân sự và cung điện ngươi; nhà của người Ê-díp-tô đều sẽ bị ruồi mòng bu đầy, và khắp trên đất nữa. [22] Nhưng ngày đó, ta sẽ phân biệt xứ Gô-sen ra, là nơi dân ta ở, không có ruồi mòng, hầu cho ngươi biết rằng ta, Giê-hô-va, có ở giữa xứ. [23] Ta sẽ phân biệt dân ta cùng dân ngươi. Ðến mai, dấu lạ nầy tất sẽ có. [24] Ðức Giê-hô-va bèn làm y như lời. Vậy, trong cung điện Pha-ra-ôn, nhà cửa của quần thần người cùng cả xứ Ê-díp-tô đều có ruồi mòng vô số, đất bị ruồi mòng hủy hoại. [25] Pha-ra-ôn bèn đòi Môi-se và A-rôn mà phán rằng: Hãy đi dâng tế lễ cho Ðức Chúa Trời các ngươi trong xứ. [26] Nhưng Môi-se tâu rằng: Làm như vậy chẳng tiện, vì các của lễ mà chúng tôi sẽ tế Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi, là một điều gớm ghê cho người Ê-díp-tô. Nếu chúng tôi dâng của lễ gớm ghê trước mắt người Ê-díp-tô, họ há chẳng liệng đá chúng tôi sao? [27] Chúng tôi sẽ đi trong đồng vắng, chừng ba ngày đường, dâng tế lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi, y như lời Ngài sẽ chỉ bảo. [28] Pha-ra-ôn bèn phán rằng: Ta sẽ tha các ngươi đi dâng tế lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi, ở nơi đồng vắng, nhưng đừng đi xa hơn. Hãy cầu nguyện cho ta với! [29] Môi-se tâu rằng: Nầy, tôi sẽ lui ra khỏi bệ hạ, cầu nguyện Ðức Giê-hô-va cho; ngày mai ruồi mòng sẽ lìa xa Pha-ra-ôn, quần thần, và dân sự người. Nhưng xin Pha-ra-ôn chớ cứ gạt chúng tôi mà không tha dân sự đi dâng tế lễ cho Ðức Giê-hô-va. [30] Môi-se bèn lui ra khỏi Pha-ra-ôn, và cầu nguyện Ðức Giê-hô-va; [31] Ngài làm y như lời Môi-se, ruồi mòng lìa xa Pha-ra-ôn, quần thần, và dân sự người, không còn lại một con nào. [32] Nhưng lần nầy, Pha-ra-ôn lại cứng lòng nữa, không cho dân sự đi. |
Chapter 9
Chương 9
[1] Then the LORD said to Moses, "Go to Pharaoh and say to him, 'This is what the LORD, the God of the Hebrews, says: "Let my people go, so that they may worship me."
[2] If you refuse to let them go and continue to hold them back, [3] the hand of the LORD will bring a terrible plague on your livestock in the field-- on your horses and donkeys and camels and on your cattle and sheep and goats. [4] But the LORD will make a distinction between the livestock of Israel and that of Egypt, so that no animal belonging to the Israelites will die.'" [5] The LORD set a time and said, "Tomorrow the LORD will do this in the land." [6] And the next day the LORD did it: All the livestock of the Egyptians died, but not one animal belonging to the Israelites died. [7] Pharaoh sent men to investigate and found that not even one of the animals of the Israelites had died. Yet his heart was unyielding and he would not let the people go. [8] Then the LORD said to Moses and Aaron, "Take handfuls of soot from a furnace and have Moses toss it into the air in the presence of Pharaoh. [9] It will become fine dust over the whole land of Egypt, and festering boils will break out on men and animals throughout the land." [10] So they took soot from a furnace and stood before Pharaoh. Moses tossed it into the air, and festering boils broke out on men and animals. [11] The magicians could not stand before Moses because of the boils that were on them and on all the Egyptians. [12] But the LORD hardened Pharaoh's heart and he would not listen to Moses and Aaron, just as the LORD had said to Moses. [13] Then the LORD said to Moses, "Get up early in the morning, confront Pharaoh and say to him, 'This is what the LORD, the God of the Hebrews, says: Let my people go, so that they may worship me, [14] or this time I will send the full force of my plagues against you and against your officials and your people, so you may know that there is no one like me in all the earth. [15] For by now I could have stretched out my hand and struck you and your people with a plague that would have wiped you off the earth. [16] But I have raised you up for this very purpose, that I might show you my power and that my name might be proclaimed in all the earth. [17] You still set yourself against my people and will not let them go. [18] Therefore, at this time tomorrow I will send the worst hailstorm that has ever fallen on Egypt, from the day it was founded till now. [19] Give an order now to bring your livestock and everything you have in the field to a place of shelter, because the hail will fall on every man and animal that has not been brought in and is still out in the field, and they will die.'" [20] Those officials of Pharaoh who feared the word of the LORD hurried to bring their slaves and their livestock inside. [21] But those who ignored the word of the LORD left their slaves and livestock in the field. [22] Then the LORD said to Moses, "Stretch out your hand toward the sky so that hail will fall all over Egypt-- on men and animals and on everything growing in the fields of Egypt." [23] When Moses stretched out his staff toward the sky, the LORD sent thunder and hail, and lightning flashed down to the ground. So the LORD rained hail on the land of Egypt; [24] hail fell and lightning flashed back and forth. It was the worst storm in all the land of Egypt since it had become a nation. [25] Throughout Egypt hail struck everything in the fields-- both men and animals; it beat down everything growing in the fields and stripped every tree. [26] The only place it did not hail was the land of Goshen, where the Israelites were. [27] Then Pharaoh summoned Moses and Aaron. "This time I have sinned," he said to them. "The LORD is in the right, and I and my people are in the wrong. [28] Pray to the LORD, for we have had enough thunder and hail. I will let you go; you don't have to stay any longer." [29] Moses replied, "When I have gone out of the city, I will spread out my hands in prayer to the LORD. The thunder will stop and there will be no more hail, so you may know that the earth is the LORD's. [30] But I know that you and your officials still do not fear the LORD God." [31] (The flax and barley were destroyed, since the barley had headed and the flax was in bloom. [32] The wheat and spelt, however, were not destroyed, because they ripen later.) [33] Then Moses left Pharaoh and went out of the city. He spread out his hands toward the LORD; the thunder and hail stopped, and the rain no longer poured down on the land. [34] When Pharaoh saw that the rain and hail and thunder had stopped, he sinned again: He and his officials hardened their hearts. [35] So Pharaoh's heart was hard and he would not let the Israelites go, just as the LORD had said through Moses. |
[1] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy đi ra mắt Pha-ra-ôn mà tâu rằng: Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: Hãy tha dân ta đi, đặng chúng nó hầu việc ta;
[2] vì nếu ngươi từ chối không tha đi, còn cầm lại nữa, [3] nầy tay của Ðức Giê-hô-va sẽ tra vào các súc vật của người ngoài đồng, vào ngựa, lừa, lạc đà, bò và chiên: sẽ có dịch lệ rất lớn. [4] Ðức Giê-hô-va sẽ phân biệt súc vật của dân Y-sơ-ra-ên cùng súc vật của người Ê-díp-tô, sẽ chẳng có một con nào của dân Y-sơ-ra-ên bị chết. [5] Ðức Giê-hô-va định kỳ mà rằng: Ðến mai, Ðức Giê-hô-va sẽ làm sự đó tại trong xứ. [6] Vừa đến mai, Ðức Giê-hô-va làm sự đó, hết thảy súc vật của người Ê-díp-tô đều chết; nhưng của dân Y-sơ-ra-ên chẳng chết một con nào. [7] Pha-ra-ôn sai người đi xét, thấy chẳng có một con súc vật nào của dân Y-sơ-ra-ên chết hết. Nhưng Pha-ra-ôn rắn lòng, chẳng cho dân sự đi. [8] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: Hãy hốt trong trong lò đầy tay các ngươi, rồi tại trước mặt Pha-ra-ôn, Môi-se sẽ vải tro đó lên trời. [9] Tro sẽ hóa thành bụi khắp cả xứ Ê-díp-tô, và sanh nhiều ghẻ chốc cương mủ trên mình người và súc vật trong khắp cả xứ Ê-díp-tô. [10] Vậy, hai người hốt tro trong lò, đứng trước mặt Pha-ra-ôn, rồi Môi-se vải tro lên trời, thì sanh ra ghẻ chốc cương mủ trên mình người ta và súc vật. [11] Các thuật sĩ đứng trước mặt Môi-se không được, vì cớ ghẻ chốc đã sanh trên mình các thuật sĩ như trên mình của hết thảy người Ê-díp-tô. [12] Ðức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, không nghe Môi-se và A-rôn chút nào, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se. [13] Ðoạn, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Ngươi hãy thức dậy sớm, ra mắt Pha-ra-ôn mà tâu rằng: Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: Hãy tha dân ta đi, để chúng nó hầu việc ta; [14] vì lần nầy ta sẽ giáng các tai nạn cho lòng ngươi, quần thần, và dân sự ngươi, hầu cho ngươi biết rằng khắp thế gian chẳng có ai bằng ta. [15] Nếu bây giờ, ta đã giơ tay ra hành hại ngươi bịnh dịch, thì ngươi cùng dân ngươi đều đã bị diệt khỏi đất rồi. [16] Nhưng vì cớ nầy ta để ngươi còn sống, là cho ngươi thấy quyền năng của ta, hầu cho danh ta đồn khắp cả thiên hạ. [17] Nếu ngươi còn cản trở, không để cho dân ta đi, [18] thì mai, tại giờ nầy, ta sẽ làm một đám mưa đá lớn, đến đỗi tại xứ Ê-díp-tô từ khi khai sáng cho đến ngày nay chẳng có đám mưa nào giống như vậy. [19] Thế thì, bây giờ hãy sai đem lục súc và mọi vật thuộc về ngươi ở ngoài đồng vào, cho khỏi hiểm nghèo. Mưa đá sẽ rớt xuống trên mọi người và vật đang ở ngoài đồng không vào nhà, thì sẽ chết hết. [20] Những kẻ nào trong quần thần Pha-ra-ôn có lòng kính sợ lời Ðức Giê-hô-va, lật đật rút đầy tớ và súc vật mình về nhà; [21] còn kẻ nào chẳng chú ý về lời Ðức Giê-hô-va, thì để đầy tớ và súc vật mình ở ngoài đồng. [22] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy giơ tay ngươi lên trời, làm mưa đá rớt xuống trên cả xứ Ê-díp-tô, trên mình người, súc vật, và khắp rau cỏ ngoài đồng. [23] Môi-se bèn giơ gậy mình lên trời, Ðức Giê-hô-va làm cho sấm động, mưa đá sa, lửa chạy trên mặt đất. Vậy, Ðức Giê-hô-va khiến mưa đá sa trên xứ Ê-díp-tô. [24] Vả, có mưa đá sa xuống và lửa cháy rất mạnh pha lộn với, đến nỗi từ khi xứ Ê-díp-tô lập quốc đến giờ, chẳng có giống như vậy. [25] Thế thì, trong cả xứ Ê-díp-tô, mưa đá làm hại mọi vật ở ngoài đồng, nào người ta, nào súc vật, nào rau-cỏ, và làm gãy cây cối nữa. [26] Chỉ đất Gô-sen, là nơi dân Y-sơ-ra-ên ở, chẳng có mưa đá mà thôi. [27] Pha-ra-ôn bèn truyền đòi Môi-se và A-rôn mà phán rằng: Lần nầy trẫm đã phạm tội; Ðức Giê-hô-va là công bình; trẫm cùng dân sự trẫm là kẻ phạm tội. [28] Hãy cầu nguyện Ðức Giê-hô-va, hầu cho tan sấm sét và mưa đá; rồi trẫm sẽ tha các ngươi đi, không đợi lâu nữa đâu. [29] Môi-se bèn đáp rằng: Vừa khi tôi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên Ðức Giê-hô-va, sấm sét sẽ lặng, mưa đá sẽ tan, hầu cho bệ hạ biết rằng trái đất thuộc về Ðức Giê-hô-va. [30] Nhưng tôi biết rằng bệ hạ và quần thần chưa kính sợ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời. [31] Vả, trong lúc đó, lúa mạch trổ bông, cây gai có hoa, nên lúa mạch và gai bị đập nát; [32] còn lúa mì và tiểu mạch trổ muộn, nên không bị đập. [33] Vậy, Môi-se lui khỏi Pha-ra-ôn, đi ra thành, giơ tay lên Ðức Giê-hô-va, sấm sét và mưa đá tạnh, mưa bèn ngớt hột trên mặt đất. [34] Khi Pha-ra-ôn thấy mưa, mưa đá và sấm sét đã tạnh rồi, người và quần thần lại rắn lòng, cứ phạm tội nữa. [35] Vậy Pha-ra-ôn cứng lòng, không tha dân Y-sơ-ra-ên đi, y như lời Ðức Giê-hô-va đã cậy Môi-se mà phán. |
Chapter 10
Chương 10
[1] Then the LORD said to Moses, "Go to Pharaoh, for I have hardened his heart and the hearts of his officials so that I may perform these miraculous signs of mine among them
[2] that you may tell your children and grandchildren how I dealt harshly with the Egyptians and how I performed my signs among them, and that you may know that I am the LORD." [3] So Moses and Aaron went to Pharaoh and said to him, "This is what the LORD, the God of the Hebrews, says: 'How long will you refuse to humble yourself before me? Let my people go, so that they may worship me. [4] If you refuse to let them go, I will bring locusts into your country tomorrow. [5] They will cover the face of the ground so that it cannot be seen. They will devour what little you have left after the hail, including every tree that is growing in your fields. [6] They will fill your houses and those of all your officials and all the Egyptians-- something neither your fathers nor your forefathers have ever seen from the day they settled in this land till now.'" Then Moses turned and left Pharaoh. [7] Pharaoh's officials said to him, "How long will this man be a snare to us? Let the people go, so that they may worship the LORD their God. Do you not yet realize that Egypt is ruined?" [8] Then Moses and Aaron were brought back to Pharaoh. "Go, worship the LORD your God," he said. "But just who will be going?" [9] Moses answered, "We will go with our young and old, with our sons and daughters, and with our flocks and herds, because we are to celebrate a festival to the LORD." [10] Pharaoh said, "The LORD be with you-- if I let you go, along with your women and children! Clearly you are bent on evil. [11] No! Have only the men go; and worship the LORD, since that's what you have been asking for." Then Moses and Aaron were driven out of Pharaoh's presence. [12] And the LORD said to Moses, "Stretch out your hand over Egypt so that locusts will swarm over the land and devour everything growing in the fields, everything left by the hail." [13] So Moses stretched out his staff over Egypt, and the LORD made an east wind blow across the land all that day and all that night. By morning the wind had brought the locusts; [14] they invaded all Egypt and settled down in every area of the country in great numbers. Never before had there been such a plague of locusts, nor will there ever be again. [15] They covered all the ground until it was black. They devoured all that was left after the hail-- everything growing in the fields and the fruit on the trees. Nothing green remained on tree or plant in all the land of Egypt. [16] Pharaoh quickly summoned Moses and Aaron and said, "I have sinned against the LORD your God and against you. [17] Now forgive my sin once more and pray to the LORD your God to take this deadly plague away from me." [18] Moses then left Pharaoh and prayed to the LORD. [19] And the LORD changed the wind to a very strong west wind, which caught up the locusts and carried them into the Red Sea. Not a locust was left anywhere in Egypt. [20] But the LORD hardened Pharaoh's heart, and he would not let the Israelites go. [21] Then the LORD said to Moses, "Stretch out your hand toward the sky so that darkness will spread over Egypt-- darkness that can be felt." [22] So Moses stretched out his hand toward the sky, and total darkness covered all Egypt for three days. [23] No one could see anyone else or leave his place for three days. Yet all the Israelites had light in the places where they lived. [24] Then Pharaoh summoned Moses and said, "Go, worship the LORD. Even your women and children may go with you; only leave your flocks and herds behind." [25] But Moses said, "You must allow us to have sacrifices and burnt offerings to present to the LORD our God. [26] Our livestock too must go with us; not a hoof is to be left behind. We have to use some of them in worshiping the LORD our God, and until we get there we will not know what we are to use to worship the LORD." [27] But the LORD hardened Pharaoh's heart, and he was not willing to let them go. [28] Pharaoh said to Moses, "Get out of my sight! Make sure you do not appear before me again! The day you see my face you will die." [29] "Just as you say," Moses replied, "I will never appear before you again." |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy đi đến Pha-ra-ôn, vì ta đã làm rắn lòng người và lòng quần thần, để làm cho các dấu lạ của ta tỏ ra giữa họ,
[2] hầu cho ngươi thuật cùng con và cháu mình những công việc to tát ta đã làm trên dân Ê-díp-tô, các dấu lạ ta đã làm giữa vòng họ, đặng các ngươi biết rằng ta là Ðức Giê-hô-va. [3] Môi-se và A-rôn bèn đi đến Pha-ra-ôn mà tâu rằng: Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: Ngươi không chịu hạ mình trước mặt ta cho đến chừng nào? Hãy tha dân ta đi, để chúng nó hầu việc ta. [4] Nếu từ chối, không cho dân ta đi, nầy, ngày mai ta sẽ sai cào cào đến địa phận ngươi; [5] nó sẽ phủ rợp trên mặt đất, người ta chẳng còn thấy đất nữa; nó sẽ cắn xả những vật chi còn lại, tức vật nào trận mưa đá còn chừa lại; nó cũng cắn xả những cây mọc ngoài đồng ruộng các ngươi, [6] vào đầy cung điện ngươi, dinh thất của quần thần ngươi, và nhà cửa của người Ê-díp-tô: ấy là một điều tổ phụ ngươi, đến nỗi thỉ tổ ngươi, cũng chẳng bao giờ thấy từ khi họ đã có trên mặt đất cho đến ngày nay. Ðoạn, Môi-se xây mặt lui ra khỏi Pha-ra-ôn. [7] Quần thần Pha-ra-ôn tâu rằng: Ðến chừng nào người nầy mới thôi gài bẫy ta? Hãy tha dân ấy đi, để chúng nó hầu việc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng nó! Bệ hạ chưa biết rằng nước Ê-díp-tô đã bị nguy vong sao? [8] Họ bèn truyền đòi Môi-se và A-rôn trở lại cùng Pha-ra-ôn; người nói rằng: Hãy đi hầu việc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi. Hết thảy những ai là người phải đi? [9] Môi-se tâu rằng: Chúng tôi đi, sẽ đem nam phụ lão ấu và chiên bò theo, vì về phần chúng tôi, ấy là một lễ của Ðức Giê-hô-va. [10] Pha-ra-ôn nói rằng: Cầu xin Ðức Giê-hô-va ở cùng các ngươi! Hồ dễ ta cho các ngươi cùng con cái đều đi sao! Không! quả thật không cho đâu, vì các ngươi có mưu ác! [11] Không được vậy đâu, chỉ các ngươi, là đàn ông, phải đi hầu việc Ðức Giê-hô-va, vì là điều các ngươi đã xin. Ðoạn, họ bèn đuổi Môi-se và A-rôn khỏi trước mặt Pha-ra-ôn. [12] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy giơ tay ngươi ra trên xứ Ê-díp-tô, đặng khiến cào cào tràn lên xứ đó, cắn xả rau cỏ và mọi vật chi trên đất mưa đá còn chừa lại. [13] Vậy, Môi-se bèn giơ gậy mình ra trên xứ Ê-díp-tô, thì Ðức Giê-hô-va dẫn ngọn gió đông thổi trên xứ sòng ngày và đêm đó; qua sáng mai gió đông đã dẫn cào cào đến. [14] Cào cào tràn lên khắp cả xứ Ê-díp-tô, và sa xuống trong địa hạt xứ ấy nhiều vô số. Trước kia chẳng bao giờ có bằng số đó, sau nầy cũng chẳng hề sẽ có bằng như vậy. [15] Cào cào bao phủ khắp mặt đất của cả xứ, và xứ thành ra tối tăm, cắn xả các rau cỏ ngoài đồng cùng trái cây mà mưa đá còn chừa lại; trong khắp xứ Ê-díp-tô chẳng còn chút xanh tươi chi cho cây cối hay là cho cỏ rau ở ngoài đồng ruộng nữa. [16] Pha-ra-ôn vội đòi Môi-se và A-rôn đến mà phán rằng: Trẫm đã phạm tội cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi, và cùng các ngươi nữa. [17] Nhưng bây giờ, xin xá tội cho trẫm lần nầy; và hãy cầu giùm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi, hầu cho ít nữa Ngài khiến xa trẫm cái vạ chết nầy. [18] Môi-se bèn lui ra khỏi Pha-ra-ôn, và khẩn nguyện Ðức Giê-hô-va. [19] Ðức Giê-hô-va dẫn ngọn gió tây đến rất mạnh, đem cào cào đi đuổi xuống Biển đỏ; khắp địa hạt Ê-díp-tô chẳng còn một con cào cào nào. [20] Nhưng Ðức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng: người chẳng tha dân Y-sơ-ra-ên đi. [21] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy giơ tay ngươi lên trời, hầu cho trên xứ Ê-díp-tô có sự tối tăm dày đến nỗi người ta rờ đụng đến được. [22] Vậy, Môi-se giơ tay mình lên trời, bèn có sự tối tăm rất dày trong ba ngày tại xứ Ê-díp-tô; [23] trong ba ngày đó người ta không thấy nhau được, không ai nhớm khỏi chỗ mình được. Nhưng trong chốn dân Y-sơ-ra-ên ở thì có ánh sáng cho họ. [24] Pha-ra-ôn bèn đòi Môi-se mà phán rằng: Hãy đi hầu việc Ðức Giê-hô-va; con trẻ các ngươi đi theo nữa; chỉ bầy chiên và bò ở lại thôi. [25] Nhưng Môi-se tâu rằng: Chính bệ hạ hãy cấp cho chúng tôi các con sinh và vật chi dùng làm của lễ thiêu để dâng cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi. [26] Các bầy lục súc sẽ theo chúng tôi nữa, không còn để lại một móng chân nào; vì chúng tôi sẽ dùng mấy con thú đó mà hầu việc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi. Chúng tôi biết vật chi dùng để thờ phượng Ðức Giê-hô-va, chỉ khi nào sẽ đến nơi đó. [27] Nhưng Ðức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, nên người không khứng cho dân Y-sơ-ra-ên đi. [28] Pha-ra-ôn nói rằng: Hãy lui ra khỏi ta cho rảnh! Khá giữ mình đừng thấy mặt ta nữa, vì ngày nào ngươi thấy mặt ta thì sẽ chết! [29] Môi-se bèn nói rằng: Bệ hạ nói phải lắm; tôi chẳng hề thấy mặt bệ hạ nữa đâu. |
Chapter 11
Chương 11
[1] Now the LORD had said to Moses, "I will bring one more plague on Pharaoh and on Egypt. After that, he will let you go from here, and when he does, he will drive you out completely.
[2] Tell the people that men and women alike are to ask their neighbors for articles of silver and gold." [3] (The LORD made the Egyptians favorably disposed toward the people, and Moses himself was highly regarded in Egypt by Pharaoh's officials and by the people.) [4] So Moses said, "This is what the LORD says: 'About midnight I will go throughout Egypt. [5] Every firstborn son in Egypt will die, from the firstborn son of Pharaoh, who sits on the throne, to the firstborn son of the slave girl, who is at her hand mill, and all the firstborn of the cattle as well. [6] There will be loud wailing throughout Egypt-- worse than there has ever been or ever will be again. [7] But among the Israelites not a dog will bark at any man or animal.' Then you will know that the LORD makes a distinction between Egypt and Israel. [8] All these officials of yours will come to me, bowing down before me and saying, 'Go, you and all the people who follow you!' After that I will leave." Then Moses, hot with anger, left Pharaoh. [9] The LORD had said to Moses, "Pharaoh will refuse to listen to you-- so that my wonders may be multiplied in Egypt." [10] Moses and Aaron performed all these wonders before Pharaoh, but the LORD hardened Pharaoh's heart, and he would not let the Israelites go out of his country. |
[1] Vả, Ðức Giê-hô-va có phán cùng Môi-se rằng: Ta sẽ giáng cho Pha-ra-ôn và xứ Ê-díp-tô một tai vạ nữa; đoạn, người sẽ tha các ngươi đi khỏi đây. Khi người định tha đi, thì sẽ đuổi các ngươi ra khỏi đây.
[2] Vậy, hãy nói cùng dân sự và dặn rằng mỗi người bất luận nam hay nữ phải xin kẻ lân cận mình những đồ bằng bạc và bằng vàng. [3] Ðức Giê-hô-va làm cho dân sự được ơn trước mặt người Ê-díp-tô; Môi-se cũng là một người rất tôn trọng trong xứ Ê-díp-tô, trước mắt quần thần của Pha-ra-ôn và trước mắt dân ấy. [4] Môi-se nói: Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Chừng giữa đêm ta sẽ ra tuần hành xứ Ê-díp-tô. [5] Hết thảy con trưởng nam trong xứ Ê-díp-tô sẽ chết, từ thái tử của Pha-ra-ôn ngồi trên ngai mình, cho đến con cả của người đòi ở sau cối, và luôn mọi con đầu lòng của súc vật nữa. [6] Trong cả xứ Ê-díp-tô sẽ có tiếng kêu la inh ỏi, cho đến đỗi chưa hề có, và cũng sẽ chẳng bao giờ có giống như vậy nữa. [7] Nhưng, trong cả dân Y-sơ-ra-ên dầu đến một con chó cũng sẽ chẳng sủa hoặc người, hoặc vật; hầu cho các ngươi biết rằng Ðức Giê-hô-va phân biệt dân Y-sơ-ra-ên cùng người Ê-díp-tô là dường nào. [8] Nầy, quần thần của bệ hạ sẽ xuống cùng tôi, sấp mình trước mặt tôi mà rằng: Ngươi và cả dân sự theo ngươi hãy đi đi! Ðoạn, tôi sẽ đi ra. Môi-se bèn lui ra khỏi Pha-ra-ôn lấy làm giận lắm. [9] Vả, Ðức Giê-hô-va có phán cùng Môi-se rằng: Pha-ra-ôn chẳng khứng nghe ngươi đâu, hầu cho các dấu lạ ta thêm lên trong xứ Ê-díp-tô. [10] Môi-se và A-rôn bèn làm các dấu lạ trước mặt Pha-ra-ôn; nhưng Ðức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, nên người chẳng tha dân Y-sơ-ra-ên đi khỏi xứ mình. |
Chapter 12
Chương 12
[1] The LORD said to Moses and Aaron in Egypt,
[2] "This month is to be for you the first month, the first month of your year. [3] Tell the whole community of Israel that on the tenth day of this month each man is to take a lamb for his family, one for each household. [4] If any household is too small for a whole lamb, they must share one with their nearest neighbor, having taken into account the number of people there are. You are to determine the amount of lamb needed in accordance with what each person will eat. [5] The animals you choose must be year-old males without defect, and you may take them from the sheep or the goats. [6] Take care of them until the fourteenth day of the month, when all the people of the community of Israel must slaughter them at twilight. [7] Then they are to take some of the blood and put it on the sides and tops of the doorframes of the houses where they eat the lambs. [8] That same night they are to eat the meat roasted over the fire, along with bitter herbs, and bread made without yeast. [9] Do not eat the meat raw or cooked in water, but roast it over the fire-- head, legs and inner parts. [10] Do not leave any of it till morning; if some is left till morning, you must burn it. [11] This is how you are to eat it: with your cloak tucked into your belt, your sandals on your feet and your staff in your hand. Eat it in haste; it is the LORD's Passover. [12] "On that same night I will pass through Egypt and strike down every firstborn-- both men and animals-- and I will bring judgment on all the gods of Egypt. I am the LORD. [13] The blood will be a sign for you on the houses where you are; and when I see the blood, I will pass over you. No destructive plague will touch you when I strike Egypt. [14] "This is a day you are to commemorate; for the generations to come you shall celebrate it as a festival to the LORD-- a lasting ordinance. [15] For seven days you are to eat bread made without yeast. On the first day remove the yeast from your houses, for whoever eats anything with yeast in it from the first day through the seventh must be cut off from Israel. [16] On the first day hold a sacred assembly, and another one on the seventh day. Do no work at all on these days, except to prepare food for everyone to eat-- that is all you may do. [17] "Celebrate the Feast of Unleavened Bread, because it was on this very day that I brought your divisions out of Egypt. Celebrate this day as a lasting ordinance for the generations to come. [18] In the first month you are to eat bread made without yeast, from the evening of the fourteenth day until the evening of the twenty-first day. [19] For seven days no yeast is to be found in your houses. And whoever eats anything with yeast in it must be cut off from the community of Israel, whether he is an alien or native-born. [20] Eat nothing made with yeast. Wherever you live, you must eat unleavened bread." [21] Then Moses summoned all the elders of Israel and said to them, "Go at once and select the animals for your families and slaughter the Passover lamb. [22] Take a bunch of hyssop, dip it into the blood in the basin and put some of the blood on the top and on both sides of the doorframe. Not one of you shall go out the door of his house until morning. [23] When the LORD goes through the land to strike down the Egyptians, he will see the blood on the top and sides of the doorframe and will pass over that doorway, and he will not permit the destroyer to enter your houses and strike you down. [24] "Obey these instructions as a lasting ordinance for you and your descendants. [25] When you enter the land that the LORD will give you as he promised, observe this ceremony. [26] And when your children ask you, 'What does this ceremony mean to you?' [27] then tell them, 'It is the Passover sacrifice to the LORD, who passed over the houses of the Israelites in Egypt and spared our homes when he struck down the Egyptians.'" Then the people bowed down and worshiped. [28] The Israelites did just what the LORD commanded Moses and Aaron. [29] At midnight the LORD struck down all the firstborn in Egypt, from the firstborn of Pharaoh, who sat on the throne, to the firstborn of the prisoner, who was in the dungeon, and the firstborn of all the livestock as well. [30] Pharaoh and all his officials and all the Egyptians got up during the night, and there was loud wailing in Egypt, for there was not a house without someone dead. [31] During the night Pharaoh summoned Moses and Aaron and said, "Up! Leave my people, you and the Israelites! Go, worship the LORD as you have requested. [32] Take your flocks and herds, as you have said, and go. And also bless me." [33] The Egyptians urged the people to hurry and leave the country. "For otherwise," they said, "we will all die!" [34] So the people took their dough before the yeast was added, and carried it on their shoulders in kneading troughs wrapped in clothing. [35] The Israelites did as Moses instructed and asked the Egyptians for articles of silver and gold and for clothing. [36] The LORD had made the Egyptians favorably disposed toward the people, and they gave them what they asked for; so they plundered the Egyptians. [37] The Israelites journeyed from Rameses to Succoth. There were about six hundred thousand men on foot, besides women and children. [38] Many other people went up with them, as well as large droves of livestock, both flocks and herds. [39] With the dough they had brought from Egypt, they baked cakes of unleavened bread. The dough was without yeast because they had been driven out of Egypt and did not have time to prepare food for themselves. [40] Now the length of time the Israelite people lived in Egypt was 430 years. [41] At the end of the 430 years, to the very day, all the LORD's divisions left Egypt. [42] Because the LORD kept vigil that night to bring them out of Egypt, on this night all the Israelites are to keep vigil to honor the LORD for the generations to come. [43] The LORD said to Moses and Aaron, "These are the regulations for the Passover: "No foreigner is to eat of it. [44] Any slave you have bought may eat of it after you have circumcised him, [45] but a temporary resident and a hired worker may not eat of it. [46] "It must be eaten inside one house; take none of the meat outside the house. Do not break any of the bones. [47] The whole community of Israel must celebrate it. [48] "An alien living among you who wants to celebrate the LORD's Passover must have all the males in his household circumcised; then he may take part like one born in the land. No uncircumcised male may eat of it. [49] The same law applies to the native-born and to the alien living among you." [50] All the Israelites did just what the LORD had commanded Moses and Aaron. [51] And on that very day the LORD brought the Israelites out of Egypt by their divisions. |
[1] Tại xứ Ê-díp-tô, Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
[2] Tháng nầy định làm tháng đầu cho các ngươi, tức là tháng giêng trong quanh năm. [3] Hãy nói cho toàn hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Ðến ngày mồng mười tháng nầy, mỗi gia trưởng tùy theo nhà mình phải bắt một con chiên con. [4] Nếu nhà ít người quá ăn không hết một chiên con, hãy chung cùng người rất lân cận mình, tùy theo số người; và hãy tính cho mỗi chiên con tùy sức người ăn hết. [5] Các ngươi hãy bắt hoặc trong bầy chiên, hoặc trong bầy dê, chiên con đực hay là dê con đực, tuổi giáp niên, chẳng tì vít chi, [6] đoạn để dành cho đến ngày mười bốn tháng nầy; rồi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ giết nó, vào lối chiều tối. [7] Họ sẽ lấy huyết đem bôi trên hai cây cột và mày cửa của nhà nào ăn thịt chiên con đó. [8] Ðêm ấy họ sẽ ăn thịt chiên quay với bánh không men và rau đắng. [9] Chớ ăn thịt nửa chín nửa sống hay là luộc trong nước, nhưng phải quay trên lửa cả và đầu, giò, với bộ lòng. [10] Các ngươi chớ để chi còn lại đến sáng mai; nếu còn lại, hãy thiêu đi. [11] Vậy, ăn thịt đó, phải như vầy: Dây lưng cột, chân mang giày, tay cầm gậy, ăn hối hả; ấy là lễ Vượt-qua của Ðức Giê-hô-va. [12] Ðêm đó ta sẽ đi qua xứ Ê-díp-tô, hành hại mọi con đầu lòng xứ Ê-díp-tô, từ người ta cho đến súc vật; ta sẽ xét đoán các thần của xứ Ê-díp-tô; ta là Ðức Giê-hô-va. [13] Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Ê-díp-tô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi. [14] Các ngươi hãy ghi ngày đó làm kỷ niệm; trải các đời hãy giữ làm một lễ cho Ðức Giê-hô-va, tức là một lễ lập ra đời đời. [15] Trong bảy ngày phải ăn bánh không men: vừa đến ngày thứ nhất, hãy dẹp men khỏi nhà đi; vì hễ ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ bảy, thì sẽ bị truất ra khỏi Y-sơ-ra-ên. [16] Ngày thứ nhất, sẽ có một sự nhóm hiệp thánh; qua ngày thứ bảy các ngươi cũng sẽ có một sự nhóm hiệp thánh nữa. Trong mấy ngày đó chẳng nên làm công việc chi, chỉ lo sắm đồ ăn cho mỗi người cần ăn mà thôi. [17] Vậy, các ngươi hãy giữ lễ bánh không men, vì chánh ngày đó ta rút quân đội các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô; nên chi, trải các đời phải giữ ngày đó như một lễ lập ra đời đời. [18] Ngày mười bốn tháng giêng, chiều lại, các ngươi sẽ ăn bánh không men cho đến chiều ngày hai mươi mốt tháng đó. [19] Trong bảy ngày không nên còn thấy men tại nhà các ngươi; vì bất luận người ngoại bang hay là người bổn xứ, hễ ai ăn bánh có men sẽ bị truất khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên. [20] Chớ nên ăn bánh có men; khắp nơi các ngươi ở đều phải ăn bánh không men. [21] Vậy, Môi-se nhóm lại các trưởng lão Y-sơ-ra-ên mà nói rằng: Hãy đi bắt một con trong bầy cho mọi nhà các ngươi, và giết nó làm lễ Vượt-qua. [22] Rồi hãy lấy một chùm kinh giới nhúng vào huyết trong chậu, bôi lên mây và hai cây cột cửa, đoạn, trong các ngươi chớ ai ra khỏi cửa nhà mình cho đến sáng mai. [23] Ðức Giê-hô-va sẽ đi qua đặng hành hại xứ Ê-díp-tô; khi thấy huyết nơi mày và hai cây cột cửa, Ngài sẽ vượt qua, không cho kẻ tiêu diệt vào nhà các ngươi đặng hành hại. [24] Hãy giữ lễ nầy như một lệ lập ra đời đời cho các ngươi và con cháu các ngươi. [25] Khi nào các ngươi vào xứ mà Ðức Giê-hô-va sẽ ban cho, như lời Ngài đã phán, thì hãy giữ lễ nầy. [26] Khi con cháu các ngươi hỏi rằng: Lễ nầy là nghĩa chi? [27] Hãy đáp rằng: Ấy là của tế lễ Vượt-qua của Ðức Giê-hô-va, vì khi Ngài hành hại xứ Ê-díp-tô thì Ngài đi vượt qua các nhà dân Y-sơ-ra-ên, và cứu nhà chúng ta đó. [28] Dân Y-sơ-ra-ên bèn cúi đầu lạy, rồi đi, làm theo như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se và A-rôn. [29] Vả, khi giữa đêm, Ðức Giê-hô-va hành hại mọi con đầu lòng tại xứ Ê-díp-tô, từ thái tử của Pha-ra-ôn ngồi trên ngai mình, cho đến con cả người bị tù, và hết thảy con đầu lòng của súc vật. [30] Ðang lúc ban đêm, Pha-ra-ôn, quần thần cùng hết thảy người Ê-díp-tô đều chờ dậy; có tiếng kêu la inh ỏi trong xứ Ê-díp-tô, vì chẳng một nhà nào là không có người chết. [31] Trong đêm đó, Pha-ra-ôn bèn đòi Môi-se và A-rôn mà phán rằng: Hai ngươi và dân Y-sơ-ra-ên hãy chờ dậy, ra khỏi giữa vòng dân ta mà đi hầu việc Ðức Giê-hô-va, như các ngươi đã nói. [32] Cũng hãy dẫn bò và chiên đi, như lời các ngươi đã nói, và cầu phước cho ta nữa. [33] Người Ê-díp-tô thúc giục dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ mau mau, vì nói rằng: Chúng ta đều chết hết! [34] Vậy, dân sự đều đem bột nhồi rồi chưa men đi, và bọc những thùng nhồi bột trong áo tơi vác lên vai mình. [35] Vả, dân Y-sơ-ra-ên có làm y theo lời Môi-se đã dặn, xin người Ê-díp-tô những đồ bằng bạc và bằng vàng cùng áo xống. [36] Ðức Giê-hô-va làm cho dân sự được ơn trước mắt người Ê-díp-tô, nên họ bằng lòng cho; và dân Y-sơ-ra-ên lột trần người Ê-díp-tô vậy. [37] Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ram-se đến Su-cốt, số không kể con nít, được chừng sáu mươi vạn người đàn ông đi bộ. [38] Lại có vô số người ngoại bang đi lên chung luôn với chiên, bò, súc vật rất nhiều. [39] Chúng bèn hấp bánh không men bằng bột của mình đã đem theo từ xứ Ê-díp-tô; bột không men, vì cớ bị đuổi khỏi xứ Ê-díp-tô không thế chậm trễ, và cũng chẳng sắm kịp lương thực chi được. [40] Vả, thì kiều ngụ của dân Y-sơ-ra-ên tại xứ Ê-díp-tô được bốn trăm ba mươi năm. [41] Khi mãn bốn trăm ba mươi năm rồi, thì, cũng trong ngày đó, các quân đội của Ðức Giê-hô-va ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [42] Ấy là một đêm người ta phải giữ cho Ðức Giê-hô-va, vì Ngài rút dân Y-sơ-ra-ên khỏi xứ Ê-díp-tô. Trải các đời, cả dân Y-sơ-ra-ên phải giữ đêm đó, để tôn trọng Ðức Giê-hô-va. [43] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: Ðây là luật lệ về lễ Vượt-qua: Phàm người ngoại bang chẳng được ăn lễ đó. [44] Còn về phần kẻ tôi mọi, là người bỏ tiền ra mua, ngươi hãy làm phép cắt bì cho, thì họ mới được ăn. [45] Khách ngoại bang và kẻ làm thuê cũng chẳng được phép ăn lễ đâu. [46] Lễ đó chỉ ăn nội trong nhà; ngươi đừng đem thịt ra ngoài, và cũng đừng làm gãy một cái xương nào. [47] Hết thảy hội chúng Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ Vượt-qua. [48] Khi một khách ngoại bang nào kiều ngụ nhà ngươi, muốn giữ lễ Vượt-qua của Ðức Giê-hô-va, thì mọi người nam của họ phải chịu phép cắt bì; đoạn, họ mới được đến gần giữ lễ nầy, và được coi như người sanh trong xứ. Nhưng ai không chịu phép cắt bì, thì chẳng được ăn đâu. [49] Cũng đồng một luật cho người sanh trong xứ cùng khách ngoại bang nào đến kiều ngụ giữa các ngươi. [50] Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều làm như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se và A-rôn. [51] Cũng trong ngày đó, Ðức Giê-hô-va rút dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo quân đội, ra khỏi xứ Ê-díp-tô. |
Chapter 13
Chương 13
[1] The LORD said to Moses,
[2] "Consecrate to me every firstborn male. The first offspring of every womb among the Israelites belongs to me, whether man or animal." [3] Then Moses said to the people, "Commemorate this day, the day you came out of Egypt, out of the land of slavery, because the LORD brought you out of it with a mighty hand. Eat nothing containing yeast. [4] Today, in the month of Abib, you are leaving. [5] When the LORD brings you into the land of the Canaanites, Hittites, Amorites, Hivites and Jebusites-- the land he swore to your forefathers to give you, a land flowing with milk and honey-- you are to observe this ceremony in this month: [6] For seven days eat bread made without yeast and on the seventh day hold a festival to the LORD. [7] Eat unleavened bread during those seven days; nothing with yeast in it is to be seen among you, nor shall any yeast be seen anywhere within your borders. [8] On that day tell your son, 'I do this because of what the LORD did for me when I came out of Egypt.' [9] This observance will be for you like a sign on your hand and a reminder on your forehead that the law of the LORD is to be on your lips. For the LORD brought you out of Egypt with his mighty hand. [10] You must keep this ordinance at the appointed time year after year. [11] "After the LORD brings you into the land of the Canaanites and gives it to you, as he promised on oath to you and your forefathers, [12] you are to give over to the LORD the first offspring of every womb. All the firstborn males of your livestock belong to the LORD. [13] Redeem with a lamb every firstborn donkey, but if you do not redeem it, break its neck. Redeem every firstborn among your sons. [14] "In days to come, when your son asks you, 'What does this mean?' say to him, 'With a mighty hand the LORD brought us out of Egypt, out of the land of slavery. [15] When Pharaoh stubbornly refused to let us go, the LORD killed every firstborn in Egypt, both man and animal. This is why I sacrifice to the LORD the first male offspring of every womb and redeem each of my firstborn sons.' [16] And it will be like a sign on your hand and a symbol on your forehead that the LORD brought us out of Egypt with his mighty hand." [17] When Pharaoh let the people go, God did not lead them on the road through the Philistine country, though that was shorter. For God said, "If they face war, they might change their minds and return to Egypt." [18] So God led the people around by the desert road toward the Red Sea. The Israelites went up out of Egypt armed for battle. [19] Moses took the bones of Joseph with him because Joseph had made the sons of Israel swear an oath. He had said, "God will surely come to your aid, and then you must carry my bones up with you from this place." [20] After leaving Succoth they camped at Etham on the edge of the desert. [21] By day the LORD went ahead of them in a pillar of cloud to guide them on their way and by night in a pillar of fire to give them light, so that they could travel by day or night. [22] Neither the pillar of cloud by day nor the pillar of fire by night left its place in front of the people. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
[2] Trong vòng dân Y-sơ-ra-ên bất luận người hay vật, hãy vì ta biệt riêng ra thánh mọi con đầu lòng; bởi con đầu lòng thuộc về ta. [3] Môi-se nói cùng dân sự rằng: Hãy kỷ niệm ngày nầy, vì là ngày Ðức Giê-hô-va dùng tay quyền năng rút các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, tức là khỏi nhà nô lệ; nên chớ ai ăn bánh có men. [4] Ngày nay, nhằm tháng lúa trỗ, các ngươi ra đi. [5] Vậy khi nào Ðức Giê-hô-va đưa ngươi vào bờ cõi xứ dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít rồi, là một xứ đượm sữa và mật, và là xứ Ngài đã thề cùng tổ phụ sẽ ban cho ngươi, thì đến trong tháng nầy hãy giữ lễ thánh đó. [6] Trong bảy ngày hãy ăn bánh không men; đến ngày thứ bảy sẽ có lễ kính Ðức Giê-hô-va. [7] Phải ăn bánh không men trong bảy ngày; khắp cả địa hạt ngươi sẽ không thấy bánh có men, hoặc men tại nơi ngươi nữa. [8] Trong ngày đó hãy giải nghĩa cho con trai ngươi rằng: Ấy vì việc Ðức Giê-hô-va làm cho ta, khi ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [9] Ðiều đó sẽ làm một dấu hiệu nơi tay ngươi, làm một kỷ niệm ghi nơi trán ở giữa cặp mắt ngươi, hầu cho luật pháp của Ðức Giê-hô-va ở nơi miệng ngươi, vì Ðức Giê-hô-va đã dùng tay quyền năng rút ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [10] Hằng năm, đến kỳ, ngươi phải giữ lễ nầy. [11] Khi Ðức Giê-hô-va đã đưa ngươi vào bờ cõi xứ Ca-na-an, như Ngài đã thề cùng ngươi, và tổ phụ ngươi, khi Ngài đã ban xứ đó cho rồi, [12] thì hãy đem dâng cho Ðức Giê-hô-va những con trưởng nam cùng cả con đầu lòng đực của súc vật ngươi, vì chúng nó đều sẽ thuộc về Ðức Giê-hô-va. [13] Nhưng mỗi con lừa đầu lòng, ngươi phải bắt chiên con hay là dê con mà chuộc; bằng không, ngươi hãy vặn cổ nó. Ngươi cũng chuộc mọi trưởng nam trong vòng con trai ngươi. [14] Vả, một mai con trai ngươi hỏi rằng: Ðiều đó có ý nghĩa chi? thì hãy đáp rằng: Ấy vì cớ Ðức Giê-hô-va đã dùng tay quyền năng rút chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, tức là nhà nô lệ; [15] và khi Pha-ra-ôn cứng lòng không tha chúng ta đi, Ngài bèn giết hết các con đầu lòng trong xứ đó, từ con trưởng nam người ta cho đến con đầu lòng súc vật. Vì cớ đó, ta dâng tế lễ cho Ðức Giê-hô-va mọi con đực sanh đầu lòng, và ta chuộc con trưởng nam trong vòng con trai ta. [16] Ấy sẽ làm một dấu hiệu nơi tay ngươi, và ấn chí nơi trán giữa cặp mắt ngươi, để nhắc cho nhớ rằng Ðức Giê-hô-va đã dùng tay quyền năng rút chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [17] Vả, khi Pha-ra-ôn tha dân Y-sơ-ra-ên đi, Ðức Chúa Trời không dẫn dân ấy đi theo đường về xứ Phi-li-tin, là đường gần hơn hết, vì Ngài nói rằng: E khi dân thấy trận mạc, dời lòng trở về xứ Ê-díp-tô chăng. [18] Cho nên Ðức Chúa Trời dẫn chúng đi vòng theo đường trong đồng vắng, về hướng Biển-dỏ. Dân Y-sơ-ra-ên cầm khí giới ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [19] Môi-se dời hài cốt Giô-sép theo mình, vì Giô-sép có bắt dân Y-sơ-ra-ên thề quyết rằng: Chắc Ðức Chúa Trời sẽ viếng các ngươi; hãy dời hài cốt ta theo các ngươi khỏi đây. [20] Vả, chúng đi khỏi Su-cốt, đóng trại tại Ê-tam, ở cuối đầu đồng vắng. [21] Ðức Giê-hô-va đi trước dân sự, ban ngày ở trong một trụ mây, để dẫn đường đi; ban đêm trong một trụ lửa, để soi sáng cho chúng, hầu cho được đi luôn ngày và đêm. [22] Ban ngày trụ mây chẳng bao giờ cách xa dân sự, trụ lửa ban đêm cũng vậy. |
Chapter 14
Chương 14
[1] Then the LORD said to Moses,
[2] "Tell the Israelites to turn back and encamp near Pi Hahiroth, between Migdol and the sea. They are to encamp by the sea, directly opposite Baal Zephon. [3] Pharaoh will think, 'The Israelites are wandering around the land in confusion, hemmed in by the desert.' [4] And I will harden Pharaoh's heart, and he will pursue them. But I will gain glory for myself through Pharaoh and all his army, and the Egyptians will know that I am the LORD." So the Israelites did this. [5] When the king of Egypt was told that the people had fled, Pharaoh and his officials changed their minds about them and said, "What have we done? We have let the Israelites go and have lost their services!" [6] So he had his chariot made ready and took his army with him. [7] He took six hundred of the best chariots, along with all the other chariots of Egypt, with officers over all of them. [8] The LORD hardened the heart of Pharaoh king of Egypt, so that he pursued the Israelites, who were marching out boldly. [9] The Egyptians-- all Pharaoh's horses and chariots, horsemen and troops-- pursued the Israelites and overtook them as they camped by the sea near Pi Hahiroth, opposite Baal Zephon. [10] As Pharaoh approached, the Israelites looked up, and there were the Egyptians, marching after them. They were terrified and cried out to the LORD. [11] They said to Moses, "Was it because there were no graves in Egypt that you brought us to the desert to die? What have you done to us by bringing us out of Egypt? [12] Didn't we say to you in Egypt, 'Leave us alone; let us serve the Egyptians'? It would have been better for us to serve the Egyptians than to die in the desert!" [13] Moses answered the people, "Do not be afraid. Stand firm and you will see the deliverance the LORD will bring you today. The Egyptians you see today you will never see again. [14] The LORD will fight for you; you need only to be still." [15] Then the LORD said to Moses, "Why are you crying out to me? Tell the Israelites to move on. [16] Raise your staff and stretch out your hand over the sea to divide the water so that the Israelites can go through the sea on dry ground. [17] I will harden the hearts of the Egyptians so that they will go in after them. And I will gain glory through Pharaoh and all his army, through his chariots and his horsemen. [18] The Egyptians will know that I am the LORD when I gain glory through Pharaoh, his chariots and his horsemen." [19] Then the angel of God, who had been traveling in front of Israel's army, withdrew and went behind them. The pillar of cloud also moved from in front and stood behind them, [20] coming between the armies of Egypt and Israel. Throughout the night the cloud brought darkness to the one side and light to the other side; so neither went near the other all night long. [21] Then Moses stretched out his hand over the sea, and all that night the LORD drove the sea back with a strong east wind and turned it into dry land. The waters were divided, [22] and the Israelites went through the sea on dry ground, with a wall of water on their right and on their left. [23] The Egyptians pursued them, and all Pharaoh's horses and chariots and horsemen followed them into the sea. [24] During the last watch of the night the LORD looked down from the pillar of fire and cloud at the Egyptian army and threw it into confusion. [25] He made the wheels of their chariots come off so that they had difficulty driving. And the Egyptians said, "Let's get away from the Israelites! The LORD is fighting for them against Egypt." [26] Then the LORD said to Moses, "Stretch out your hand over the sea so that the waters may flow back over the Egyptians and their chariots and horsemen." [27] Moses stretched out his hand over the sea, and at daybreak the sea went back to its place. The Egyptians were fleeing toward it, and the LORD swept them into the sea. [28] The water flowed back and covered the chariots and horsemen-- the entire army of Pharaoh that had followed the Israelites into the sea. Not one of them survived. [29] But the Israelites went through the sea on dry ground, with a wall of water on their right and on their left. [30] That day the LORD saved Israel from the hands of the Egyptians, and Israel saw the Egyptians lying dead on the shore. [31] And when the Israelites saw the great power the LORD displayed against the Egyptians, the people feared the LORD and put their trust in him and in Moses his servant. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
[2] Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên trở lại đóng trại tại trước Phi-Ha-hi-rốt, ngang Ba-anh-Sê-phôn, giữa khoảng Mít-đôn và biển. Các ngươi hãy đóng trại đối diện nơi nầy, gần biển. [3] Chắc Pha-ra-ôn sẽ nói về dân Y-sơ-ra-ên rằng: Dân đó lạc đường bị khốn trong đồng vắng rồi. [4] Ta sẽ làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, người sẽ đuổi theo dân đó; nhưng ta sẽ vì Pha-ra-ôn và cả toán binh người được rạng danh; người Ê-díp-tô sẽ biết ta là Ðức Giê-hô-va. Dân Y-sơ-ra-ên bèn làm như vậy. [5] Vả, họ báo cùng vua Ê-díp-tô rằng dân Hê-bơ-rơ đã trốn đi rồi. Lòng Pha-ra-ôn và quần thần đối cùng dân đó bèn thay đổi, nói rằng: Chúng ta đã làm chi vậy, tha dân Y-sơ-ra-ên đi để khỏi phục dịch ta nữa sao? [6] Pha-ra-ôn bèn thắng xe và đem dân mình theo. [7] Người đem sáu trăm xe thượng hạng và hết thảy xe trong xứ Ê-díp-tô, trên mỗi xe đều có chiến binh cả. [8] Ðức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, cứng lòng, đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên; nhưng dân nầy đã ra đi một cách dạn dĩ. [9] Người Ê-díp-tô và cả ngựa xe, lính kỵ, cùng toán binh của Pha-ra-ôn đều đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên, gặp đang đóng đồn nơi bờ biển, gần Phi-ha-hi-rốt, ngang Ba-anh-Sê-phôn. [10] Vả, khi Pha-ra-ôn đến gần, dân Y-sơ-ra-ên ngước mắt lên, thấy dân Ê-díp-tô đuổi theo, bèn lấy làm hãi hùng, kêu van Ðức Giê-hô-va. [11] Chúng lại nói cùng Môi-se rằng: Xứ Ê-díp-tô há chẳng có nơi mộ phần, nên nỗi người mới dẫn chúng tôi vào đồng vắng đặng chết sao? Người đưa chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô để làm chi? [12] Chúng tôi há chẳng có nói cùng người tại xứ Ê-díp-tô rằng: Ðể mặc chúng tôi phục dịch dân Ê-díp-tô, vì thà rằng phục dịch họ còn hơn phải chết nơi đồng vắng? [13] Môi-se đáp cùng dân sự rằng: Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự giải cứu Ðức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. [14] Ðức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng. [15] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Sao ngươi kêu van ta? Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên cứ đi; [16] còn ngươi hãy giơ gậy lên, đưa tay trên mặt biển, phân rẽ nước ra, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ xuống biển đi như trên đất cạn. [17] Còn ta sẽ làm cho dân Ê-díp-tô cứng lòng theo dân Y-sơ-ra-ên xuống biển, rồi ta sẽ được rạng danh vì Pha-ra-ôn, cả đạo binh, binh xa, và lính kỵ người. [18] Khi nào ta được rạng danh vì Pha-ra-ôn, binh xa, cùng lính kỵ người, thì người Ê-díp-tô sẽ rõ ràng ta là Ðức Giê-hô-va vậy. [19] Thiên sứ của Ðức Chúa Trời đã đi trước trại quân của dân Y-sơ-ra-ên lộn lại đi sau; còn trụ mây vốn đi trước trại quân, lại ở về sau; [20] trụ mây đứng về giữa khoảng trại người Ê-díp-tô và trại dân Y-sơ-ra-ên, làm áng mây tối tăm cho đàng nầy, soi sáng ban đêm cho đàng kia; nên trọn cả đêm hai trại chẳng hề xáp gần nhau được. [21] Vả, Môi-se giơ tay ra trên biển, Ðức Giê-hô-va dẫn trận gió đông thổi mạnh đến đùa biển lại trọn cả đêm; Ngài làm cho biển bày ra khô, nước phân rẽ. [22] Dân Y-sơ-ra-ên xuống biển, đi như trên đất cạn; còn nước làm thành một tấm vách ngăn bên hữu và bên tả. [23] Người Ê-díp-tô bèn đuổi theo; hết thảy ngựa, binh xa cùng lính kỵ của Pha-ra-ôn đều theo xuống giữa biển. [24] Vả, đến canh sáng, Ðức Giê-hô-va ở trong lòng trụ mây và lửa, nhìn ra thấy trại quân Ê-díp-tô, bèn làm cho họ phải rối loạn. [25] Ngài tháo bánh xe của họ, khiến dẫn dắt cực nhọc. Người Ê-díp-tô bèn nói nhau rằng: Ta hãy trốn khỏi dân Y-sơ-ra-ên đi, vì Ðức Giê-hô-va thế dân đó mà chiến cự cùng chúng ta. [26] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy giơ tay ngươi ra trên biển, nước sẽ trở lấp người Ê-díp-tô, binh xa và lính kỵ của chúng nó. [27] Môi-se bèn giơ tay mình ra trên biển, lối sáng mai, nước trở lấp phủ đáy biển lại, người Ê-díp-tô chạy trốn bị nước chận; vậy Ðức Giê-hô-va xô họ xuống giữa biển. [28] Thế thì, nước trở lại bao phủ binh xa, lính kỵ của cả đạo binh Pha-ra-ôn đã theo dân Y-sơ-ra-ên xuống biển, chẳng còn sót lại một ai. [29] Song dân Y-sơ-ra-ên đi giữa biển như trên đất cạn; nước làm thành vách ngăn bên hữu và bên tả. [30] Trong ngày đó, Ðức Giê-hô-va giải cứu dân Y-sơ-ra-ên thoát khỏi tay người Ê-díp-tô; dân ấy thấy người Ê-díp-tô chết trên bãi biển. [31] Dân Y-sơ-ra-ên thấy việc lớn lao mà Ðức Giê-hô-va đã làm cho người Ê-díp-tô, nên kính sợ Ngài, tin Ngài và Môi-se, là tôi tớ Ngài. |
Chapter 15
Chương 15
[1] Then Moses and the Israelites sang this song to the LORD: "I will sing to the LORD, for he is highly exalted. The horse and its rider he has hurled into the sea.
[2] The LORD is my strength and my song; he has become my salvation. He is my God, and I will praise him, my father's God, and I will exalt him. [3] The LORD is a warrior; the LORD is his name. [4] Pharaoh's chariots and his army he has hurled into the sea. The best of Pharaoh's officers are drowned in the Red Sea. [5] The deep waters have covered them; they sank to the depths like a stone. [6] "Your right hand, O LORD, was majestic in power. Your right hand, O LORD, shattered the enemy. [7] In the greatness of your majesty you threw down those who opposed you. You unleashed your burning anger; it consumed them like stubble. [8] By the blast of your nostrils the waters piled up. The surging waters stood firm like a wall; the deep waters congealed in the heart of the sea. [9] "The enemy boasted, 'I will pursue, I will overtake them. I will divide the spoils; I will gorge myself on them. I will draw my sword and my hand will destroy them.' [10] But you blew with your breath, and the sea covered them. They sank like lead in the mighty waters. [11] "Who among the gods is like you, O LORD? Who is like you-- majestic in holiness, awesome in glory, working wonders? [12] You stretched out your right hand and the earth swallowed them. [13] "In your unfailing love you will lead the people you have redeemed. In your strength you will guide them to your holy dwelling. [14] The nations will hear and tremble; anguish will grip the people of Philistia. [15] The chiefs of Edom will be terrified, the leaders of Moab will be seized with trembling, the people of Canaan will melt away; [16] terror and dread will fall upon them. By the power of your arm they will be as still as a stone-- until your people pass by, O LORD, until the people you bought pass by. [17] You will bring them in and plant them on the mountain of your inheritance-- the place, O LORD, you made for your dwelling, the sanctuary, O Lord, your hands established. [18] The LORD will reign for ever and ever." [19] When Pharaoh's horses, chariots and horsemen went into the sea, the LORD brought the waters of the sea back over them, but the Israelites walked through the sea on dry ground. [20] Then Miriam the prophetess, Aaron's sister, took a tambourine in her hand, and all the women followed her, with tambourines and dancing. [21] Miriam sang to them: "Sing to the LORD, for he is highly exalted. The horse and its rider he has hurled into the sea." [22] Then Moses led Israel from the Red Sea and they went into the Desert of Shur. For three days they traveled in the desert without finding water. [23] When they came to Marah, they could not drink its water because it was bitter. (That is why the place is called Marah.) [24] So the people grumbled against Moses, saying, "What are we to drink?" [25] Then Moses cried out to the LORD, and the LORD showed him a piece of wood. He threw it into the water, and the water became sweet. There the LORD made a decree and a law for them, and there he tested them. [26] He said, "If you listen carefully to the voice of the LORD your God and do what is right in his eyes, if you pay attention to his commands and keep all his decrees, I will not bring on you any of the diseases I brought on the Egyptians, for I am the LORD, who heals you." [27] Then they came to Elim, where there were twelve springs and seventy palm trees, and they camped there near the water. |
[1] Ðoạn, Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca nầy cho Ðức Giê-hô-va, rằng: Tôi ca tụng Ðức Giê-hô-va, vì Ngài rất vinh hiển oai nghiêm. Ngài đã liệng xuống biển ngựa và người cỡi ngựa.
[2] Ðức Giê-hô-va là sức mạnh và sự ca tụng của tôi: Ngài đã trở nên Ðấng cứu tôi. Ngài là Ðức Chúa Trời tôi, tôi ngợi khen Ngài; Ðức Chúa Trời của tổ phụ tôi, tôi tôn kính Ngài. [3] Ðức Giê-hô-va là một chiến sĩ; Danh Ngài là Giê-hô-va. [4] Ngài đã ném xuống biển binh xa Pha-ra-ôn và cả đạo binh của người; Quan tướng kén chọn của người đã bị đắm nơi Biển đỏ, [5] Những lượn sóng đã vùi lấp họ rồi; Họ chìm đến đáy biển như một hòn đá vậy. [6] Hỡi Ðức Giê-hô-va! Tay hữu Ngài có sức mạnh vinh hiển thay. Hỡi Ðức Giê-hô-va! Tay hữu Ngài hủy quân nghịch tan đi. [7] Bởi sự cả thể của oai nghiêm Ngài, Ðánh đổ kẻ dấy nghịch cùng mình. Ngài nổi giận phừng phừng, Ðốt họ cháy như rơm ra. [8] Lỗ mũi Ngài thở hơi ra, nước bèn dồn lại, Lượn sóng đổ dựng như một bờ đê; Vực sâu đọng lại nơi rún biển. [9] Quân nghịch rằng: Ta đuổi theo, ta sẽ đuổi kịp Ta sẽ chia phân của giặc; Tâm hồn ta sẽ thỏa nguyện nơi họ; Ta rút gươm ra, tay ta hủy diệt họ. [10] Ngài đã thở hơi ra Biển vùi lấp quân nghịch lại; Họ bị chìm như cục chì Nơi đáy nước sâu. [11] Hỡi Ðức Giê-hô-va! trong vòng các thần, ai giống như Ngài? Trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài. Ðáng sợ, đáng khen Hay làm các phép lạ? [12] Ngài đã đưa tay hữu ra, Ðất đã nuốt chúng nó. [13] Ngài lấy lòng thương xót dìu dắt Dân nầy mà Ngài đã chuộc lại; Ngài đã dùng năng lực đưa nó Về nơi ở thánh của Ngài. [14] Các dân tộc nghe biết việc nầy đều run sợ, Cơn kinh hãi áp-hãm dân xứ Pha-lê-tin. [15] Các quan trưởng xứ Ê-đôm bèn lấy làm bối rối; Mấy mặt anh hùng nơi Mô-áp đều kinh hồn; Cả dân Ca-na-an đều mất vía [16] Sự hoảng hốt kinh hãi giáng cho chúng nó; Hỡi Ðức Giê-hô-va! vì quyền cao nơi cánh tay Ngài, Chúng nó đều bị câm như đá, Cho đến chừng nào dân Ngài vượt qua; Cho đến khi dân mà Ngài đã chuộc, vượt qua rồi. [17] Hỡi Ðức Giê-hô-va! Ngài đưa dân ấy vào, và lập nơi núi cơ nghiệp Ngài, Tức là chốn Ngài đã sắm sẵn, để làm nơi ở của Ngài, Hỡi Chúa! là đền thánh mà tay Ngài đã lập. [18] Ðức Giê-hô-va sẽ cai trị đời đời kiếp kiếp. [19] Vì ngựa của Pha-ra-ôn, binh xa, cùng lính kỵ người đã xuống biển; Và Ðức Giê-hô-va đã vùi dập nước biển lên trên, Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đi giữa biển như đi trên đất cạn. [20] Nữ tiên tri Mi-ri-am, là em gái A-rôn, tay cầm trống cơm, các đàn bà đều đi ra theo người, cầm trống cơm và múa. [21] Mi-ri-am đáp lại rằng: Hãy ca tụng Ðức Giê-hô-va, vì Ngài rất vinh hiển oai nghiêm; Ngài đã liệng xuống biển ngựa và người cỡi ngựa. [22] Ðoạn, Môi-se đem dân Y-sơ-ra-ên đi khỏi Biển đỏ, đến nơi đồng vắng Su-rơ; trọn ba ngày đi trong đồng vắng, kiếm chẳng được nước đâu cả. [23] Kế đến đất Ma-ra, nhưng vì nước tại đó đắng, uống chẳng được, nên chi chỗ nầy gọi là Ma-ra. [24] Dân sự bèn oán trách Môi-se rằng: Chúng tôi lấy chi uống? [25] Môi-se kêu van Ðức Giê-hô-va; Ngài bèn chỉ cho người một cây gỗ, người lấy liệng xuống nước, nước bèn hóa ra ngọt. Ấy tại đó, Ðức Giê-hô-va định luật lệ cùng lập pháp độ cho dân sự, và tại đó Ngài thử họ. [26] Ngài phán rằng: Nếu ngươi chăm chỉ nghe lời Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, làm sự ngay thẳng trước mặt Ngài, lắng tai nghe các điều răn và giữ mọi luật lệ Ngài, thì ta chẳng giáng cho ngươi một trong các bịnh nào mà ta đã giáng cho xứ Ê-díp-tô; vì ta là Ðức Giê-hô-va, Ðấng chữa bịnh cho ngươi. [27] Ðoạn, dân sự đến đất Ê-lim; nơi đó có mười hai suối nước, và bảy mươi cây chà là; dân sự đóng trại tại đó, gần bên suối nước. |
Chapter 16
Chương 16
[1] The whole Israelite community set out from Elim and came to the Desert of Sin, which is between Elim and Sinai, on the fifteenth day of the second month after they had come out of Egypt.
[2] In the desert the whole community grumbled against Moses and Aaron. [3] The Israelites said to them, "If only we had died by the LORD's hand in Egypt! There we sat around pots of meat and ate all the food we wanted, but you have brought us out into this desert to starve this entire assembly to death." [4] Then the LORD said to Moses, "I will rain down bread from heaven for you. The people are to go out each day and gather enough for that day. In this way I will test them and see whether they will follow my instructions. [5] On the sixth day they are to prepare what they bring in, and that is to be twice as much as they gather on the other days." [6] So Moses and Aaron said to all the Israelites, "In the evening you will know that it was the LORD who brought you out of Egypt, [7] and in the morning you will see the glory of the LORD, because he has heard your grumbling against him. Who are we, that you should grumble against us?" [8] Moses also said, "You will know that it was the LORD when he gives you meat to eat in the evening and all the bread you want in the morning, because he has heard your grumbling against him. Who are we? You are not grumbling against us, but against the LORD." [9] Then Moses told Aaron, "Say to the entire Israelite community, 'Come before the LORD, for he has heard your grumbling.'" [10] While Aaron was speaking to the whole Israelite community, they looked toward the desert, and there was the glory of the LORD appearing in the cloud. [11] The LORD said to Moses, [12] "I have heard the grumbling of the Israelites. Tell them, 'At twilight you will eat meat, and in the morning you will be filled with bread. Then you will know that I am the LORD your God.'" [13] That evening quail came and covered the camp, and in the morning there was a layer of dew around the camp. [14] When the dew was gone, thin flakes like frost on the ground appeared on the desert floor. [15] When the Israelites saw it, they said to each other, "What is it?" For they did not know what it was. Moses said to them, "It is the bread the LORD has given you to eat. [16] This is what the LORD has commanded: 'Each one is to gather as much as he needs. Take an omer for each person you have in your tent.'" [17] The Israelites did as they were told; some gathered much, some little. [18] And when they measured it by the omer, he who gathered much did not have too much, and he who gathered little did not have too little. Each one gathered as much as he needed. [19] Then Moses said to them, "No one is to keep any of it until morning." [20] However, some of them paid no attention to Moses; they kept part of it until morning, but it was full of maggots and began to smell. So Moses was angry with them. [21] Each morning everyone gathered as much as he needed, and when the sun grew hot, it melted away. [22] On the sixth day, they gathered twice as much-- two omers for each person-- and the leaders of the community came and reported this to Moses. [23] He said to them, "This is what the LORD commanded: 'Tomorrow is to be a day of rest, a holy Sabbath to the LORD. So bake what you want to bake and boil what you want to boil. Save whatever is left and keep it until morning.'" [24] So they saved it until morning, as Moses commanded, and it did not stink or get maggots in it. [25] "Eat it today," Moses said, "because today is a Sabbath to the LORD. You will not find any of it on the ground today. [26] Six days you are to gather it, but on the seventh day, the Sabbath, there will not be any." [27] Nevertheless, some of the people went out on the seventh day to gather it, but they found none. [28] Then the LORD said to Moses, "How long will you refuse to keep my commands and my instructions? [29] Bear in mind that the LORD has given you the Sabbath; that is why on the sixth day he gives you bread for two days. Everyone is to stay where he is on the seventh day; no one is to go out." [30] So the people rested on the seventh day. [31] The people of Israel called the bread manna. It was white like coriander seed and tasted like wafers made with honey. [32] Moses said, "This is what the LORD has commanded: 'Take an omer of manna and keep it for the generations to come, so they can see the bread I gave you to eat in the desert when I brought you out of Egypt.'" [33] So Moses said to Aaron, "Take a jar and put an omer of manna in it. Then place it before the LORD to be kept for the generations to come." [34] As the LORD commanded Moses, Aaron put the manna in front of the Testimony, that it might be kept. [35] The Israelites ate manna forty years, until they came to a land that was settled; they ate manna until they reached the border of Canaan. [36] (An omer is one tenth of an ephah.) |
[1] Nhằm ngày mười lăm tháng hai, sau khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên ở nơi Ê-lim đi đến đồng vắng Sin, nằm về giữa khoảng Ê-lim và Si-na-i.
[2] Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn tại nơi đồng vắng, [3] nói cùng hai người rằng: Ôi! thà rằng chúng tôi chịu chết về tay Ðức Giê-hô-va tại xứ Ê-díp-tô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán hê! Vì hai người dẫn dắt chúng tôi vào nơi đồng vắng nầy đều bị chết đói. [4] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Nầy, ta sẽ từ trên trời cao làm mưa bánh xuống cho các ngươi. Dân sự sẽ đi ra, mỗi ngày nào thâu bánh đủ cho ngày nấy, đặng ta thử dân coi có đi theo luật lệ của ta hay chăng. [5] Qua ngày thứ sáu, dân sự sẽ dự bị phần đã góp, và sẽ được phần gấp bằng hai của mình thường thâu hằng ngày. [6] Môi-se và A-rôn bèn nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Chiều nay các ngươi sẽ nhận biết rằng ấy là Ðức Giê-hô-va đã rút các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, [7] và sáng mai sẽ thấy sự vinh quang của Ðức Giê-hô-va, vì Ngài đã nghe lời các ngươi oán trách Ngài rồi. Vả lại, chúng ta là ai mà các ngươi oán trách chúng ta? [8] Môi-se nói: Chiều nầy Ðức Giê-hô-va sẽ phát thịt cho các ngươi ăn, rồi sáng mai bánh nhiều dư dật, vì Ngài đã nghe lời các ngươi oán trách Ngài rồi. Thế thì, chúng ta là ai? Những lời oán trách chẳng phải đổ về chúng ta đâu, nhưng về Ðức Giê-hô-va vậy. [9] Môi-se nói cùng A-rôn rằng: Hãy nói cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi hãy đến trước mặt Ðức Giê-hô-va, vì Ngài đã nghe lời oán trách của các ngươi rồi. [10] Vả, khi A-rôn nói cùng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, thì họ xây mặt về phía đồng vắng, thấy sự vinh quang của Ngài hiện ra trong đám mây. [11] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: [12] Ta đã nghe lời oán trách của dân Y-sơ-ra-ên. Vậy, ngươi hãy nói cùng chúng nó rằng: Lối chiều các ngươi sẽ ăn thịt; sáng mai sẽ ăn bánh no nê, và sẽ biết ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi. [13] Vậy, chiều lại, có chim cút bay lên phủ trên trại quân; đến sáng mai lại có một lớp sương ở chung quanh trại quân. [14] Lớp sương đó tan đi, trên mặt đồng vắng thấy có vật chi nhỏ, tròn, như hột sương đóng trên mặt đất. [15] Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy, bèn hỏi nhau rằng: Cái chi vậy? Vì chẳng biết vật đó là gì. Môi-se bèn nói cùng dân sự rằng: Ấy là bánh mà Ðức Giê-hô-va ban cho các ngươi làm lương thực đó. [16] Nầy là lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn: Hãy tùy sức ăn của mỗi người, và tùy số người trong trại mà góp cho mỗi tên một ô-me. [17] Dân Y-sơ-ra-ên bèn làm như vậy, kẻ thì lượm nhiều, người thì lượm ít, [18] cứ lường từ mô-me; ai lượm nhiều chẳng được trội, ai lượm ít cũng chẳng thiếu; mỗi người lượm vừa đủ sức mình ăn. [19] Môi-se nói cùng dân sự rằng: Ðừng ai để dư lại cho đến sáng mai. [20] Nhưng dân sự chẳng nghe theo lời Môi-se, một vài người để dư lại đến sáng mai; thì sâu hóa ở trong, vật sanh mùi hôi hám. Môi-se bèn nổi giận cùng họ. [21] Vậy, hằng buổi sớm mai mỗi người lượm vừa đủ sức mình ăn; khi mặt trời nắng nóng thì vật đó tan ra. [22] Ðến ngày thứ sáu, dân sự lượm lương thực gấp hai; mỗi người hai ô-me. Các hội trưởng đến thuật lại cho Môi-se rõ. [23] Người đáp rằng: Ấy là lời Ðức Giê-hô-va đã phán rằng: Mai là ngày nghỉ, tức ngày Sa-bát thánh cho Ðức Giê-hô-va, hãy nướng món chi các ngươi muốn nướng, hãy nấu món chi các ngươi muốn nấu; hễ còn dư, hãy để dành đến sáng mai. [24] Dân sự bèn để dành cho đến sáng mai, y như lời Môi-se đã truyền; vật đó chẳng sanh mùi hôi hám và cũng chẳng hóa sâu chút nào. [25] Môi-se bèn nói rằng: Bữa nay hãy ăn đồ đó đi, vì là ngày Sa-bát của Ðức Giê-hô-va; hôm nay các ngươi chẳng tìm thấy vật đó ở trong đồng đâu. [26] Các ngươi lượm trong sáu ngày, nhưng qua ngày thứ bảy là ngày Sa-bát, sẽ chẳng có đâu. [27] Ngày thứ bảy, một vài người trong vòng dân sự ra đặng lượm lấy, nhưng tìm chẳng thấy chi hết. [28] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Các ngươi chẳng chịu vâng giữ điều răn và luật pháp ta cho đến chừng nào? [29] Hãy suy nghĩ rằng Ðức Giê-hô-va đã cho các ngươi ngày Sa-bát; vậy nên, đến ngày thứ sáu Ngài lại cho các ngươi lương thực đủ hai ngày. Trong ngày thứ bảy, mỗi người phải ở yên chỗ mình, chớ ai ra khỏi nhà. [30] Thế thì, ngày thứ bảy dân sự đều nghỉ ngơi. [31] Nhà Y-sơ-ra-ên đặt tên lương thực nầy là ma-na; nó giống như hột ngò, sắc trắng, mùi như bánh ngọt pha mật ong. [32] Môi-se nói rằng: Lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn như vầy: Hãy đổ đầy một ô-me ma-na, đặng lưu truyền trải các đời, hầu cho thiên hạ thấy thứ bánh ta đã cho các ngươi ăn nơi đồng vắng, khi ta rút các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [33] Môi-se lại nói cùng A-rôn rằng: Hãy lấy một cái bình đựng đầy một ô-me ma-na, để trước mặt Ðức Giê-hô-va, đặng lưu truyền các đời. [34] A-rôn bèn để bình đó trước sự chứng cớ, hầu cho được lưu truyền y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [35] Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trải bốn mươi năm, cho đến khi vào bờ cõi xứ Ca-na-an, là xứ có người ta ở. [36] Vả, ô-me là một phần mười của ê-pha. |
Chapter 17
Chương 17
[1] The whole Israelite community set out from the Desert of Sin, traveling from place to place as the LORD commanded. They camped at Rephidim, but there was no water for the people to drink.
[2] So they quarreled with Moses and said, "Give us water to drink." Moses replied, "Why do you quarrel with me? Why do you put the LORD to the test?" [3] But the people were thirsty for water there, and they grumbled against Moses. They said, "Why did you bring us up out of Egypt to make us and our children and livestock die of thirst?" [4] Then Moses cried out to the LORD, "What am I to do with these people? They are almost ready to stone me." [5] The LORD answered Moses, "Walk on ahead of the people. Take with you some of the elders of Israel and take in your hand the staff with which you struck the Nile, and go. [6] I will stand there before you by the rock at Horeb. Strike the rock, and water will come out of it for the people to drink." So Moses did this in the sight of the elders of Israel. [7] And he called the place Massah and Meribah because the Israelites quarreled and because they tested the LORD saying, "Is the LORD among us or not?" [8] The Amalekites came and attacked the Israelites at Rephidim. [9] Moses said to Joshua, "Choose some of our men and go out to fight the Amalekites. Tomorrow I will stand on top of the hill with the staff of God in my hands." [10] So Joshua fought the Amalekites as Moses had ordered, and Moses, Aaron and Hur went to the top of the hill. [11] As long as Moses held up his hands, the Israelites were winning, but whenever he lowered his hands, the Amalekites were winning. [12] When Moses' hands grew tired, they took a stone and put it under him and he sat on it. Aaron and Hur held his hands up-- one on one side, one on the other-- so that his hands remained steady till sunset. [13] So Joshua overcame the Amalekite army with the sword. [14] Then the LORD said to Moses, "Write this on a scroll as something to be remembered and make sure that Joshua hears it, because I will completely blot out the memory of Amalek from under heaven." [15] Moses built an altar and called it The LORD is my Banner. [16] He said, "For hands were lifted up to the throne of the LORD. The LORD will be at war against the Amalekites from generation to generation." |
[1] Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi từ đồng vắng Sin, đi từng trạm, tùy theo lịnh Ðức Giê-hô-va, đóng trại tại Rê-phi-đim; ở đó chẳng có nước cho dân sự uống.
[2] Dân sự bèn kiếm cớ cãi lộn cùng Môi-se mà rằng: Hãy cho chúng tôi nước uống. Môi-se đáp rằng: Sao các ngươi kiếm cớ cãi lộn cùng ta? Sao ướm thử Ðức Giê-hô-va vậy? [3] Dân sự ở đó không có nước, bị khát, nên oán trách Môi-se mà rằng: Sao người khiến chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô, hầu cho chúng tôi, con và các bầy súc vật phải chịu chết khát thế nầy? [4] Môi-se bèn kêu cầu Ðức Giê-hô-va mà rằng: Tôi phải xử thế nào cùng dân nầy? Thiếu điều họ ném đá tôi! [5] Ðức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se rằng: Hãy cầm gậy của ngươi đã đập dưới sông, dẫn theo những trưởng lão Y-sơ-ra-ên, rồi đi trước mặt dân sự. [6] Nầy ta sẽ đứng đằng trước ngươi, ở trên hòn đá tại Hô-rếp kia, ngươi hãy đập hòn đá, thì nước từ đó chảy ra, dân sự sẽ uống lấy. Môi-se bèn làm như vậy trước mặt các trưởng lão Y-sơ-ra-ên. [7] Người đặt tên nơi nầy là Ma-sa và Mê-ri-ba, vì cớ việc cãi lộn mà dân Y-sơ-ra-ên kiếm cớ gây cùng người, và vì họ đã ướm thử Ðức Giê-hô-va mà nói rằng: Có Ðức Giê-hô-va ở giữa chúng ta hay chăng? [8] Vả, khi đó, dân A-ma-léc đến khêu chiến cùng Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim. [9] Môi-se bèn nói cùng Giô-suê rằng: Hãy chọn lấy tráng sĩ cho chúng ta, ra chiến đấu cùng dân A-ma-léc; ngày mai ta sẽ đứng nơi đầu nổng, cầm gậy của Ðức Chúa Trời trong tay. [10] Giô-suê bèn làm y như lời Môi-se nói, để cự chiến dân A-ma-léc; còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên trên đầu nổng. [11] Vả, hễ đang khi Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-sơ-ra-ên thắng hơn; nhưng khi người xụi tay xuống, dân A-ma-léc lại thắng hơn. [12] Tay Môi-se mỏi, A-rôn và Hu-rơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đỡ tay người lên; tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn. [13] Giô-suê lấy lưỡi gươm đánh bại A-ma-léc và dân sự người. [14] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy chép điều nầy trong sách làm kỷ niệm, và hãy nói cho Giô-suê biết rằng ta sẽ bôi sạch kỷ niệm về A-ma-léc trong thiên hạ. [15] Môi-se lập lên một bàn thờ, đặt tên là "Giê-hô-va cờ xí của tôi"; [16] và nói rằng: Bởi vì A-ma-léc có giơ tay lên nghịch cùng ngôi Ðức Giê-hô-va, nên Ðức Giê-hô-va chinh chiến với A-ma-léc từ đời nầy qua đời kia. |
Chapter 18
Chương 18
[1] Now Jethro, the priest of Midian and father-in-law of Moses, heard of everything God had done for Moses and for his people Israel, and how the LORD had brought Israel out of Egypt.
[2] After Moses had sent away his wife Zipporah, his father-in-law Jethro received her [3] and her two sons. One son was named Gershom, for Moses said, "I have become an alien in a foreign land"; [4] and the other was named Eliezer, for he said, "My father's God was my helper; he saved me from the sword of Pharaoh." [5] Jethro, Moses' father-in-law, together with Moses' sons and wife, came to him in the desert, where he was camped near the mountain of God. [6] Jethro had sent word to him, "I, your father-in-law Jethro, am coming to you with your wife and her two sons." [7] So Moses went out to meet his father-in-law and bowed down and kissed him. They greeted each other and then went into the tent. [8] Moses told his father-in-law about everything the LORD had done to Pharaoh and the Egyptians for Israel's sake and about all the hardships they had met along the way and how the LORD had saved them. [9] Jethro was delighted to hear about all the good things the LORD had done for Israel in rescuing them from the hand of the Egyptians. [10] He said, "Praise be to the LORD, who rescued you from the hand of the Egyptians and of Pharaoh, and who rescued the people from the hand of the Egyptians. [11] Now I know that the LORD is greater than all other gods, for he did this to those who had treated Israel arrogantly." [12] Then Jethro, Moses' father-in-law, brought a burnt offering and other sacrifices to God, and Aaron came with all the elders of Israel to eat bread with Moses' father-in-law in the presence of God. [13] The next day Moses took his seat to serve as judge for the people, and they stood around him from morning till evening. [14] When his father-in-law saw all that Moses was doing for the people, he said, "What is this you are doing for the people? Why do you alone sit as judge, while all these people stand around you from morning till evening?" [15] Moses answered him, "Because the people come to me to seek God's will. [16] Whenever they have a dispute, it is brought to me, and I decide between the parties and inform them of God's decrees and laws." [17] Moses' father-in-law replied, "What you are doing is not good. [18] You and these people who come to you will only wear yourselves out. The work is too heavy for you; you cannot handle it alone. [19] Listen now to me and I will give you some advice, and may God be with you. You must be the people's representative before God and bring their disputes to him. [20] Teach them the decrees and laws, and show them the way to live and the duties they are to perform. [21] But select capable men from all the people-- men who fear God, trustworthy men who hate dishonest gain-- and appoint them as officials over thousands, hundreds, fifties and tens. [22] Have them serve as judges for the people at all times, but have them bring every difficult case to you; the simple cases they can decide themselves. That will make your load lighter, because they will share it with you. [23] If you do this and God so commands, you will be able to stand the strain, and all these people will go home satisfied." [24] Moses listened to his father-in-law and did everything he said. [25] He chose capable men from all Israel and made them leaders of the people, officials over thousands, hundreds, fifties and tens. [26] They served as judges for the people at all times. The difficult cases they brought to Moses, but the simple ones they decided themselves. [27] Then Moses sent his father-in-law on his way, and Jethro returned to his own country. |
[1] Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an, ông gia của Môi-se, hay được mọi điều Ðức Chúa Trời đã làm cho Môi-se cùng Y-sơ-ra-ên, là dân sự Ngài, và nghe Ngài đã dẫn dân ấy ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
[2] Người bèn dẫn Sê-phô-ra, vợ Môi-se, đã cho trở về nhà cha, [3] cùng hai con trai, một tên là Ghẹt-sôn, vì Môi-se đã nói rằng: Tôi kiều ngụ nơi ngoại bang; [4] và một tên là Ê-li-ê-se, vì người lại có nói: Ðức Chúa Trời của tổ phụ tôi đã vùa giúp và giải cứu tôi khỏi gươm Pha-ra-ôn. [5] Vậy, Giê-trô, ông gia của Môi-se, đến với hai con trai và vợ Môi-se, thăm người nơi đồng vắng, chỗ đóng trại gần bên núi Ðức Chúa Trời. [6] Người bèn sai báo cùng Môi-se rằng: Ta là Giê-trô, ông gia của ngươi, ta cùng vợ ngươi và hai con trai nàng đến thăm ngươi. [7] Môi-se ra đón rước ông gia mình, mọp xuống và hôn người, hỏi thăm nhau, rồi vào trại. [8] Môi-se liền thuật cho ông gia mình biết mọi điều Ðức Giê-hô-va vì Y-sơ-ra-ên đã làm cho Pha-ra-ôn và người Ê-díp-tô, mọi điều khổ nhọc xảy đến cho mình dọc đường và Ðức Giê-hô-va đã giải thoát dân Y-sơ-ra-ên thế nào. [9] Giê-trô lấy làm vui mừng về các ơn mà Ðức Giê-hô-va đã làm cho Y-sơ-ra-ên, giải cứu dân ấy khỏi tay người Ê-díp-tô. [10] Giê-trô nói rằng: Ðáng ngợi khen Ðức Giê-hô-va thay! là Ðấng đã giải cứu các ngươi ra khỏi tay người Ê-díp-tô và tay Pha-ra-ôn, và giải cứu dân sự ra khỏi quyền của người Ê-díp-tô. [11] Bây giờ ta biết rằng Ðức Giê-hô-va là lớn hơn hết các thần, vì khi người Ê-díp-tô cậy lòng kiêu ngạo dấy lên, thì Ngài thắng được chúng nó. [12] Giê-trô, ông gia của Môi-se, bèn bày một của lễ thiêu và các lễ vật mà dâng cho Ðức Chúa Trời; rồi A-rôn và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến ăn bánh cùng ông gia của Môi-se, trước mặt Ðức Chúa Trời. [13] Qua ngày sau, Môi-se ra ngồi xét đoán dân sự; dân sự đứng chực trước mặt người từ sớm mai đến chiều. [14] Ông gia thấy mọi điều người làm cho dân sự, bèn hỏi rằng: Con làm chi cùng dân sự đó? Sao con chỉ ngồi một mình, còn cả dân sự đứng chực trước mặt từ sớm mai cho đến chiều như vậy? [15] Môi-se bèn thưa rằng: Ấy vì dân sự đến cùng tôi đặng hỏi ý Ðức Chúa Trời. [16] Khi nào họ có việc chi, thì đến cùng tôi, tôi xét đoán người nầy cùng người kia, và cho họ biết những mạng lịnh và luật pháp của Ðức Chúa Trời. [17] Nhưng ông gia lại nói rằng: Ðiều con làm đó chẳng tiện. [18] Quả thật, con cùng dân sự ở với con sẽ bị đuối chẳng sai, vì việc đó nặng nề quá sức con, một mình gánh chẳng nổi. [19] Bây giờ, hãy nghe cha khuyên con một lời, cầu xin Ðức Giê-hô-va phù hộ cho. Về phần con, hãy làm kẻ thay mặt cho dân sự trước mặt Ðức Chúa Trời, và đem trình mọi việc cho Ngài hay. [20] Hãy lấy mạng lịnh và luật pháp Ngài mà dạy họ, chỉ cho biết con đường nào phải đi, và điều chi phải làm. [21] Nhưng hãy chọn lấy trong vòng dân sự mấy người tài năng, kính sợ Ðức Chúa Trời, chân thật, ghét sự tham lợi, mà lập lên trên dân sự, làm trưởng cai trị hoặc ngàn người, hoặc trăm người, hoặc năm mươi người, hoặc mười người, [22] đặng xét đoán dân sự hằng ngày. Nếu có việc can hệ lớn, họ hãy giải lên cho con; còn những việc nhỏ mọn, chính họ hãy xét đoán lấy. Hãy san bớt gánh cho nhẹ; đặng họ chia gánh cùng con. [23] Nếu con làm việc nầy, và Ðức Chúa Trời ban lịnh cho con, con chắc sẽ chịu nổi được, và cả dân sự nấy sẽ đến chỗ mình bình yên. [24] Môi-se vâng lời ông gia mình, làm y như lọi điều người đã dạy. [25] Vậy, Môi-se bèn chọn trong cả Y-sơ-ra-ên những người tài năng, lập lên trên dân sự, làm trưởng cai trị, hoặc ngàn người, hoặc trăm người, hoặc năm mươi người, hoặc mười người; [26] họ xét đoán dân sự hằng ngày. Các việc khó họ giãi lên cho Môi-se; nhưng chính họ xét lấy các việc nhỏ. [27] Ðoạn, Môi-se để cho ông gia mình trở về xứ người. |
Chapter 19
Chương 19
[1] In the third month after the Israelites left Egypt-- on the very day-- they came to the Desert of Sinai.
[2] After they set out from Rephidim, they entered the Desert of Sinai, and Israel camped there in the desert in front of the mountain. [3] Then Moses went up to God, and the LORD called to him from the mountain and said, "This is what you are to say to the house of Jacob and what you are to tell the people of Israel: [4] 'You yourselves have seen what I did to Egypt, and how I carried you on eagles' wings and brought you to myself. [5] Now if you obey me fully and keep my covenant, then out of all nations you will be my treasured possession. Although the whole earth is mine, [6] you will be for me a kingdom of priests and a holy nation.' These are the words you are to speak to the Israelites." [7] So Moses went back and summoned the elders of the people and set before them all the words the LORD had commanded him to speak. [8] The people all responded together, "We will do everything the LORD has said." So Moses brought their answer back to the LORD. [9] The LORD said to Moses, "I am going to come to you in a dense cloud, so that the people will hear me speaking with you and will always put their trust in you." Then Moses told the LORD what the people had said. [10] And the LORD said to Moses, "Go to the people and consecrate them today and tomorrow. Have them wash their clothes [11] and be ready by the third day, because on that day the LORD will come down on Mount Sinai in the sight of all the people. [12] Put limits for the people around the mountain and tell them, 'Be careful that you do not go up the mountain or touch the foot of it. Whoever touches the mountain shall surely be put to death. [13] He shall surely be stoned or shot with arrows; not a hand is to be laid on him. Whether man or animal, he shall not be permitted to live.' Only when the ram's horn sounds a long blast may they go up to the mountain." [14] After Moses had gone down the mountain to the people, he consecrated them, and they washed their clothes. [15] Then he said to the people, "Prepare yourselves for the third day. Abstain from sexual relations." [16] On the morning of the third day there was thunder and lightning, with a thick cloud over the mountain, and a very loud trumpet blast. Everyone in the camp trembled. [17] Then Moses led the people out of the camp to meet with God, and they stood at the foot of the mountain. [18] Mount Sinai was covered with smoke, because the LORD descended on it in fire. The smoke billowed up from it like smoke from a furnace, the whole mountain trembled violently, [19] and the sound of the trumpet grew louder and louder. Then Moses spoke and the voice of God answered him. [20] The LORD descended to the top of Mount Sinai and called Moses to the top of the mountain. So Moses went up [21] and the LORD said to him, "Go down and warn the people so they do not force their way through to see the LORD and many of them perish. [22] Even the priests, who approach the LORD, must consecrate themselves, or the LORD will break out against them." [23] Moses said to the LORD, "The people cannot come up Mount Sinai, because you yourself warned us, 'Put limits around the mountain and set it apart as holy.'" [24] The LORD replied, "Go down and bring Aaron up with you. But the priests and the people must not force their way through to come up to the LORD, or he will break out against them." [25] So Moses went down to the people and told them. |
[1] Tháng thứ ba, sau khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, trong ngày đó dân Y-sơ-ra-ên đến nơi đồng vắng Si-na-i.
[2] Từ Rê-phi-đim ra đi, đến nơi đồng vắng Si-na-i, đóng trại tại đó, đối diện cùng núi. [3] Môi-se bèn lên đến Ðức Chúa Trời, Ðức Giê-hô-va ở trên núi gọi người mà phán rằng: Ngươi hãy nói như vầy cho nhà Gia-cốp, và tỏ điều nầy cho dân Y-sơ-ra-ên: [4] Các ngươi đã thấy điều ta làm cho người Ê-díp-tô, ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm sao, và dẫn các ngươi đến cùng ta thể nào. [5] Vậy, bây giờ, nếu các ngươi vâng lời ta và giữ sự giao ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi sẽ thuộc riêng về ta, vì cả thế gian đều thuộc về ta. [6] Các ngươi sẽ thành một nước thầy tế lễ, cùng một dân tộc thánh cho ta. Bấy nhiêu lời đó ngươi sẽ nói lại cùng dân Y-sơ-ra-ên. [7] Môi-se đến đòi các trưởng lão trong dân sự, thuật cùng họ mọi lời Ðức Giê-hô-va đã dặn mình nói lại. [8] Cả dân sự đồng thinh đáp rằng: Chúng tôi xin làm mọi việc Ðức Giê-hô-va đã phán dặn. Môi-se bèn thuật lại lời của dân sự cùng Ðức Giê-hô-va. [9] Ngài phán rằng: Nầy, ta sẽ ở trong đám mây mịt mịt đi đến ngươi; đặng khi nào ta phán cùng ngươi, thì dân sự nghe và tin cậy ngươi luôn luôn. Ðoạn, Môi-se đem lời của dân sự thưa lại cho Ðức Giê-hô-va. [10] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy đi đến cùng dân sự, khiến dân giữ mình thánh sạch ngày nay và ngày mai, cùng phải giặt áo xống mình. [11] Qua ngày thứ ba, dân khá sẵn sàng, vì ngày đó Ðức Giê-hô-va sẽ giáng lâm trước mắt dân sự tại núi Si-na-i. [12] Vả, ngươi hãy phân định giới hạn cho dân sự ở chung quanh núi, và dặn rằng: Khá giữ mình đừng leo lên núi, hoặc đụng đến chân; hễ kẻ nào đụng đến thì sẽ bị xử tử. [13] Chớ ai tra tay vào mình người đó, nhưng người đó phải bị liệng đá hoặc bắn tên; bất luận vật hay người, cũng chẳng để cho sống đâu. Khi kèn thổi lên, dân sự sẽ đến gần núi. [14] Môi-se xuống núi đến cùng dân sự, khiến họ giữ mình thánh sạch, và giặt áo xống mình. [15] Người dặn dân sự rằng: Trong ba ngày hãy sẵn sàng chớ đến gần đàn bà. [16] Qua sáng ngày thứ ba, có sấm vang chớp nhoáng, một áng mây mịt mịt ở trên núi, và tiếng kèn thổi rất vang động; cả dân sự ở trong trại quân đều run hãi. [17] Môi-se bèn biểu dân ra khỏi trại quân nghinh tiếp Ðức Chúa Trời; dân sự dừng lại tại chân núi. [18] Vả, bấy giờ, khắp núi Si-na-i đều ra khói, vì Ðức Giê-hô-va ở trong lửa giáng lâm nơi đó; khói ra khác nào khói của lò lửa lớn kia, và cả hòn núi đều rung động cách kịch liệt. [19] Tiếng kèn càng vang động; Môi-se nói, Ðức Chúa Trời đáp tiếng lại. [20] Ðức Giê-hô-va giáng-lâm trên chót núi Si-na-i, đòi Môi-se lên, Môi-se bèn lên. [21] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Hãy xuống cấm dân sự đừng xông pha đến gần Ðức Giê-hô-va mà nhìn, e nhiều người trong bọn phải chết chăng. [22] Dầu những thầy tế lễ đến gần Ðức Giê-hô-va cũng phải giữ mình thánh sạch, kẻo Ngài hại họ chăng. [23] Môi-se thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Dân sự chẳng được lên núi Si-na-i đâu, vì Ngài có cấm chúng tôi mà phán rằng: Hãy phân định giới hạn chung quanh núi, và phân biệt nơi đó là đất thánh. [24] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Hãy đi xuống, rồi đem A-rôn lên cùng ngươi, song những thầy tế lễ và dân sự chớ xông pha đặng lên đến gần Ðức Giê-hô-va, e Ngài hại họ chăng. [25] Vậy, Môi-se đi xuống, nói lại cho dân sự nghe. |
Chapter 20
Chương 20
[1] And God spoke all these words:
[2] "I am the LORD your God, who brought you out of Egypt, out of the land of slavery. [3] "You shall have no other gods before me. [4] "You shall not make for yourself an idol in the form of anything in heaven above or on the earth beneath or in the waters below. [5] You shall not bow down to them or worship them; for I, the LORD your God, am a jealous God, punishing the children for the sin of the fathers to the third and fourth generation of those who hate me, [6] but showing love to a thousand [generations] of those who love me and keep my commandments. [7] "You shall not misuse the name of the LORD your God, for the LORD will not hold anyone guiltless who misuses his name. [8] "Remember the Sabbath day by keeping it holy. [9] Six days you shall labor and do all your work, [10] but the seventh day is a Sabbath to the LORD your God. On it you shall not do any work, neither you, nor your son or daughter, nor your manservant or maidservant, nor your animals, nor the alien within your gates. [11] For in six days the LORD made the heavens and the earth, the sea, and all that is in them, but he rested on the seventh day. Therefore the LORD blessed the Sabbath day and made it holy. [12] "Honor your father and your mother, so that you may live long in the land the LORD your God is giving you. [13] "You shall not murder. [14] "You shall not commit adultery. [15] "You shall not steal. [16] "You shall not give false testimony against your neighbor. [17] "You shall not covet your neighbor's house. You shall not covet your neighbor's wife, or his manservant or maidservant, his ox or donkey, or anything that belongs to your neighbor." [18] When the people saw the thunder and lightning and heard the trumpet and saw the mountain in smoke, they trembled with fear. They stayed at a distance [19] and said to Moses, "Speak to us yourself and we will listen. But do not have God speak to us or we will die." [20] Moses said to the people, "Do not be afraid. God has come to test you, so that the fear of God will be with you to keep you from sinning." [21] The people remained at a distance, while Moses approached the thick darkness where God was. [22] Then the LORD said to Moses, "Tell the Israelites this: 'You have seen for yourselves that I have spoken to you from heaven: [23] Do not make any gods to be alongside me; do not make for yourselves gods of silver or gods of gold. [24] "'Make an altar of earth for me and sacrifice on it your burnt offerings and fellowship offerings, your sheep and goats and your cattle. Wherever I cause my name to be honored, I will come to you and bless you. [25] If you make an altar of stones for me, do not build it with dressed stones, for you will defile it if you use a tool on it. [26] And do not go up to my altar on steps, lest your nakedness be exposed on it.' |
[1] Bấy giờ, Ðức Chúa Trời phán mọi lời nầy, rằng:
[2] Ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là nhà nô lệ. [3] Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác. [4] Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. [5] Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, tức là Ðức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, [6] và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến ta và giữ các điều răn ta. [7] Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Ðức Giê-hô-va chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi. [8] Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh. [9] Ngươi hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày; [10] nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái tôi trai tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết; [11] vì trong sáu ngày Ðức Giê-hô-va đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật ở trong đó, qua ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ: vậy nên Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho ngày nghỉ và làm nên ngày thánh. [12] Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi ban cho. [13] Ngươi chớ giết người. [14] Ngươi chớ phạm tội tà dâm. [15] Ngươi chớ trộm cướp. [16] Ngươi chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình. [17] Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi. [18] Vả, cả dân sự nghe sấm vang, tiếng kèn thổi, thấy chớp nhoáng, núi ra khói, thì run rẩy và đứng cách tận xa. [19] Dân sự bèn nói cùng Môi-se rằng: Chính mình người hãy nói cùng chúng tôi thì chúng tôi sẽ nghe; nhưng cầu xin Ðức Chúa Trời chớ phán cùng, e chúng tôi phải chết chăng. [20] Môi-se đáp rằng: Ðừng sợ chi, vì Ðức Chúa Trời giáng lâm đặng thử các ngươi, hầu cho sự kính sợ Ngài ở trước mặt các ngươi, cho các ngươi không phạm tội. [21] Vậy, dân sự đứng cách tận xa, còn Môi-se đến gần đám mây đen kịt có Ðức Chúa Trời ngự ở trong. [22] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Ngươi hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Các ngươi đã thấy ta từ trên trời phán xuống cùng; [23] vậy, chớ đúc tượng thần bằng bạc hay bằng vàng mà sánh với ta. [24] Ngươi hãy lập cho ta một bàn thờ bằng đất, trên đó phải dâng của lễ thiêu, cùng của lễ thù ân của ngươi, hoặc chiên hay bò. Phàm nơi nào có ghi nhớ danh ta, ta sẽ đến và ban phước cho ngươi tại đó. [25] Nếu ngươi lập cho ta một bàn thờ bằng đá, chớ dùng đá chạm, vì nếu ngươi dùng đồ để chạm thì sẽ làm đá đó ra ô uế. [26] Ngươi chớ đi từ bực thang lên bàn thờ ta, hầu cho sự lõa lồ ngươi không tố lộ. |
Chapter 21
Chương 21
[1] "These are the laws you are to set before them:
[2] "If you buy a Hebrew servant, he is to serve you for six years. But in the seventh year, he shall go free, without paying anything. [3] If he comes alone, he is to go free alone; but if he has a wife when he comes, she is to go with him. [4] If his master gives him a wife and she bears him sons or daughters, the woman and her children shall belong to her master, and only the man shall go free. [5] "But if the servant declares, 'I love my master and my wife and children and do not want to go free,' [6] then his master must take him before the judges. He shall take him to the door or the doorpost and pierce his ear with an awl. Then he will be his servant for life. [7] "If a man sells his daughter as a servant, she is not to go free as menservants do. [8] If she does not please the master who has selected her for himself, he must let her be redeemed. He has no right to sell her to foreigners, because he has broken faith with her. [9] If he selects her for his son, he must grant her the rights of a daughter. [10] If he marries another woman, he must not deprive the first one of her food, clothing and marital rights. [11] If he does not provide her with these three things, she is to go free, without any payment of money. [12] "Anyone who strikes a man and kills him shall surely be put to death. [13] However, if he does not do it intentionally, but God lets it happen, he is to flee to a place I will designate. [14] But if a man schemes and kills another man deliberately, take him away from my altar and put him to death. [15] "Anyone who attacks his father or his mother must be put to death. [16] "Anyone who kidnaps another and either sells him or still has him when he is caught must be put to death. [17] "Anyone who curses his father or mother must be put to death. [18] "If men quarrel and one hits the other with a stone or with his fist and he does not die but is confined to bed, [19] the one who struck the blow will not be held responsible if the other gets up and walks around outside with his staff; however, he must pay the injured man for the loss of his time and see that he is completely healed. [20] "If a man beats his male or female slave with a rod and the slave dies as a direct result, he must be punished, [21] but he is not to be punished if the slave gets up after a day or two, since the slave is his property. [22] "If men who are fighting hit a pregnant woman and she gives birth prematurely but there is no serious injury, the offender must be fined whatever the woman's husband demands and the court allows. [23] But if there is serious injury, you are to take life for life, [24] eye for eye, tooth for tooth, hand for hand, foot for foot, [25] burn for burn, wound for wound, bruise for bruise. [26] "If a man hits a manservant or maidservant in the eye and destroys it, he must let the servant go free to compensate for the eye. [27] And if he knocks out the tooth of a manservant or maidservant, he must let the servant go free to compensate for the tooth. [28] "If a bull gores a man or a woman to death, the bull must be stoned to death, and its meat must not be eaten. But the owner of the bull will not be held responsible. [29] If, however, the bull has had the habit of goring and the owner has been warned but has not kept it penned up and it kills a man or woman, the bull must be stoned and the owner also must be put to death. [30] However, if payment is demanded of him, he may redeem his life by paying whatever is demanded. [31] This law also applies if the bull gores a son or daughter. [32] If the bull gores a male or female slave, the owner must pay thirty shekels of silver to the master of the slave, and the bull must be stoned. [33] "If a man uncovers a pit or digs one and fails to cover it and an ox or a donkey falls into it, [34] the owner of the pit must pay for the loss; he must pay its owner, and the dead animal will be his. [35] "If a man's bull injures the bull of another and it dies, they are to sell the live one and divide both the money and the dead animal equally. [36] However, if it was known that the bull had the habit of goring, yet the owner did not keep it penned up, the owner must pay, animal for animal, and the dead animal will be his. |
[1] Ðây là luật lệ ngươi phải truyền cho dân sự:
[2] Nếu ngươi mua một người đầy tớ Hê-bơ-rơ, nó sẽ hầu việc cho sáu năm; nhưng qua năm thứ bảy nó sẽ được thả ra, không phải thối tiền. [3] Nếu nó vào ở một mình, thì sẽ ra một mình; nếu có vợ, thì sẽ ra với vợ. [4] Nếu người chủ cưới vợ cho, và nếu vợ sanh được con trai hay gái, thì nó sẽ ra một mình, vợ và con thuộc về chủ. [5] Nếu kẻ tôi mọi nói rằng: Tôi thương chủ, vợ và con tôi, không muốn ra được tự do, [6] thì người chủ sẽ dẫn nó đến trước mặt Ðức Chúa Trời, biểu lại gần cửa hay là cột, rồi lấy mũi dùi xỏ tai; nó sẽ hầu việc người chủ đó trọn đời. [7] Nếu ai bán con gái mình làm con đòi, con gái đó không được ra như các đầy tớ kia. [8] Nếu chủ trước đã ưng lấy con đòi làm hầu, rồi sau lại chẳng muốn, thì chủ phải biểu chuộc nàng lại, chớ không có phép gạt, rồi đem bán nàng cho kẻ ngoại bang. [9] Nhưng nếu chủ định để cho con trai mình, thì phải xử với nàng theo phép như con gái mình vậy. [10] Nếu chủ có lấy người khác, thì đối với người thứ nhất chẳng được phép giảm đồ ăn, đồ mặc, và tình nghĩa vợ chồng chút nào. [11] Nếu người chủ không làm theo ba điều nầy, nàng được phép ra không, chẳng phải thối tiền lại. [12] Kẻ nào đánh chết một người, sẽ bị xử tử. [13] Nhược bằng kẻ đó chẳng phải mưu giết, nhưng vì Ðức Chúa Trời đã phú người bị giết vào tay kẻ đó, thì ta sẽ lập cho ngươi một chỗ đặng kẻ giết người ẩn thân. [14] Còn nhược bằng kẻ nào dấy lên cùng người lân cận mà lập mưu giết người, thì dẫu rằng nó núp nơi bàn thờ ta, ngươi cũng bắt mà giết đi. [15] Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử. [16] Kẻ nào bắt người và bán, hoặc giữ lại trong tay mình, sẽ bị xử tử. [17] Kẻ nào mắng cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử. [18] Khi hai người đánh lộn nhau, người nầy đánh người kia bằng đá hay là đấm cú, không đến đỗi phải chết, nhưng phải nằm liệt giường, [19] nếu đứng dậy chống gậy đi ra ngoài được, người đánh đó sẽ được tha tội. Nhưng chỉ phải đền tiền thiệt hại trong mấy ngày nghỉ và nuôi cho đến khi lành mạnh. [20] Khi người chủ lấy gậy đánh đầy tớ trai hay gái mình và chết liền theo tay, thì chắc phải bị phạt. [21] Song nếu đầy tớ trai hay gái còn sống một hai ngày, người chủ khỏi tội, vì nó vốn là tài sản của chủ. [22] Nếu người ta đánh nhau, đụng nhằm một người đàn bà có thai, làm cho phải sảo, nhưng chẳng bị sự hại chi khác, thì kẻ đánh nhằm đó phải bồi thường theo lời chồng người sẽ định, và trả tiền trước mặt quan án. [23] Còn nếu có sự hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng thường mạng, [24] lấy mắt thường mắt, lấy răng thường răng, lấy tay thường tay, lấy chân thường chân, [25] lấy phỏng thường phỏng, lấy bầm thường bầm, lấy thương thường thương. [26] Nếu ai đánh nhằm con mắt đầy tớ trai hay gái mình, làm cho mất đi, thì hãy tha nó ra tự do, vì cớ mất con mắt. [27] Nếu ai làm rụng một răng của đầy tớ trai hay gái mình, thì hãy tha nó ra tự do, vì cớ mất một răng. [28] Ví có một con bò báng nhằm một người đàn ông hay đàn bà phải chết đi, con bò sẽ bị ném đá chết, người ta không nên ăn thịt nó; còn người chủ bò sẽ được vô tội. [29] Nhưng ngộ từ trước con bò có tật hay báng và chủ đã bị mắng vốn mà không cầm giữ, nếu bò nầy còn giết một người đàn ông hay đàn bà, thì nó sẽ bị ném đá, và chủ sẽ bị xử tử nữa. [30] Nhược bằng người ta định giá cho chủ bò chuộc mạng, chủ phải chuộc mạng mình y như giá đã định. [31] Nếu bò báng nhằm một đứa con trai hay là con gái, người ta cũng sẽ chiếu theo luật nầy. [32] Con bò báng nhằm một đứa đầy tớ trai hay gái, chủ bò phải trả ba chục siếc lơ bạc cho chủ nó; rồi bò sẽ bị ném đá chết. [33] Nếu ai mở miệng hầm hay là đào hầm mà chẳng đậy lại, và nếu có bò hay là lừa té xuống đó, [34] chủ hầm sẽ bồi thường giá tiền cho chủ của súc vật, nhưng súc vật bị giết đó sẽ về phần mình. [35] Bằng bò của ai báng nhằm bò của kẻ lân cận mình phải chết đi, hai người hãy bán bò sống đó, chia tiền và chia luôn con bò chết nữa. [36] Nếu người chủ đã tỏ tường trước rằng bò mình có tật hay báng, mà không lo cầm giữ, chủ phải lấy bò thường bò, nhưng bò chết sẽ về phần người. |
Chapter 22
Chương 22
[1] "If a man steals an ox or a sheep and slaughters it or sells it, he must pay back five head of cattle for the ox and four sheep for the sheep.
[2] "If a thief is caught breaking in and is struck so that he dies, the defender is not guilty of bloodshed; [3] but if it happens after sunrise, he is guilty of bloodshed. "A thief must certainly make restitution, but if he has nothing, he must be sold to pay for his theft. [4] "If the stolen animal is found alive in his possession-- whether ox or donkey or sheep-- he must pay back double. [5] "If a man grazes his livestock in a field or vineyard and lets them stray and they graze in another man's field, he must make restitution from the best of his own field or vineyard. [6] "If a fire breaks out and spreads into thornbushes so that it burns shocks of grain or standing grain or the whole field, the one who started the fire must make restitution. [7] "If a man gives his neighbor silver or goods for safekeeping and they are stolen from the neighbor's house, the thief, if he is caught, must pay back double. [8] But if the thief is not found, the owner of the house must appear before the judges to determine whether he has laid his hands on the other man's property. [9] In all cases of illegal possession of an ox, a donkey, a sheep, a garment, or any other lost property about which somebody says, 'This is mine,' both parties are to bring their cases before the judges. The one whom the judges declare guilty must pay back double to his neighbor. [10] "If a man gives a donkey, an ox, a sheep or any other animal to his neighbor for safekeeping and it dies or is injured or is taken away while no one is looking, [11] the issue between them will be settled by the taking of an oath before the LORD that the neighbor did not lay hands on the other person's property. The owner is to accept this, and no restitution is required. [12] But if the animal was stolen from the neighbor, he must make restitution to the owner. [13] If it was torn to pieces by a wild animal, he shall bring in the remains as evidence and he will not be required to pay for the torn animal. [14] "If a man borrows an animal from his neighbor and it is injured or dies while the owner is not present, he must make restitution. [15] But if the owner is with the animal, the borrower will not have to pay. If the animal was hired, the money paid for the hire covers the loss. [16] "If a man seduces a virgin who is not pledged to be married and sleeps with her, he must pay the bride-price, and she shall be his wife. [17] If her father absolutely refuses to give her to him, he must still pay the bride-price for virgins. [18] "Do not allow a sorceress to live. [19] "Anyone who has sexual relations with an animal must be put to death. [20] "Whoever sacrifices to any god other than the LORD must be destroyed. [21] "Do not mistreat an alien or oppress him, for you were aliens in Egypt. [22] "Do not take advantage of a widow or an orphan. [23] If you do and they cry out to me, I will certainly hear their cry. [24] My anger will be aroused, and I will kill you with the sword; your wives will become widows and your children fatherless. [25] "If you lend money to one of my people among you who is needy, do not be like a moneylender; charge him no interest. [26] If you take your neighbor's cloak as a pledge, return it to him by sunset, [27] because his cloak is the only covering he has for his body. What else will he sleep in? When he cries out to me, I will hear, for I am compassionate. [28] "Do not blaspheme God or curse the ruler of your people. [29] "Do not hold back offerings from your granaries or your vats. "You must give me the firstborn of your sons. [30] Do the same with your cattle and your sheep. Let them stay with their mothers for seven days, but give them to me on the eighth day. [31] "You are to be my holy people. So do not eat the meat of an animal torn by wild beasts; throw it to the dogs. |
[1] Ví ai bắt trộm bò hay chiên, rồi giết hoặc bán đi, thì phải thường năm con bò cho một con, và bốn con chiên cho một con.
[2] Nếu kẻ trộm đang cạy cửa mà bị bắt và đánh chết đi, thì kẻ đánh chết chẳng phải tội sát nhân. [3] Song nếu đánh chết trong khi mặt trời đã mọc rồi, thì bị tội sát nhân. Kẻ trộm phải bồi thường; bằng chẳng có chi, thì sẽ bị bán vì tội trộm cắp mình. [4] Nếu vật mà kẻ trộm đã lấy, hoặc bò, lừa hay chiên, hãy còn thấy sống trong tay, thì kẻ trộm phải bồi thường gấp hai. [5] Ngộ ai làm hư hại trong ruộng hay là vườn nho, thả súc vật mình vào ăn trong ruộng người khác, thì ai đó phải lấy hoa lợi tốt nhất của ruộng hay là vườn nho mình mà thường bồi. [6] Nếu lửa nổi đốt bụi gai và cháy lan qua lúa đã bó, mùa màng, hay là đồng ruộng, thì kẻ nổi lửa đó phải bồi thường trọn mọi vật đã bị cháy. [7] Khi ai giao tiền bạc bay đồ vật cho kẻ lân cận mình giữ, rủi bị trộm cắp tại nhà kẻ lân cận đó, nếu tên trộm đã bị bắt được, thì nó phải thường gấp hai. [8] Nếu kẻ trộm không bị bắt được, thì chủ nhà cho gởi phải dẫn đến trước mặt Ðức Chúa Trời, đặng thề rằng mình chẳng hề đặt tay vào tài vật của kẻ lân cận mình. [9] Trong mọi việc gian lận nào, hoặc về một con bò, một con lừa, một con chiên, áo xống hay là một vật chi bị mất, mà có người nói rằng: "quả thật là đồ đó", thì phải đem duyên cớ hai đàng đến trước mặt Ðức Chúa Trời; kẻ nào bị Ngài xử phạt phải thường bồi cho kẻ lân cận mình gấp hai. [10] Nhược bằng người nào giao lừa, bò, chiên, hoặc súc vật nào khác cho kẻ lân cận mình giữ và bị chết, gãy một giò hay là bị đuổi đi, không ai thấy, [11] thì hai đàng phải lấy danh Ðức Giê-hô-va mà thề, hầu cho biết rằng người giữ súc vật có đặt tay trên tài vật của kẻ lân cận mình chăng. Người chủ con vật phải nhận lời thề, và người kia chẳng bồi thường. [12] Còn nếu con vật bị bắt trộm, thì người lãnh giữ phải thường bồi cho chủ nó. [13] Nếu con bật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng, sẽ không phải bồi thường vật bị xé đó. [14] Vì ai mượn người lân cận mình một con vật mà nó gãy một giò, hoặc bị chết, không có mặt chủ, thì ai đó phải bồi thường. [15] Nếu chủ có mặt tại đó, thì không phải bồi thường. Nếu con vật đã cho mướn, thì giá muớn thế cho tiền bồi thường. [16] Nếu kẻ nào hòa dụ và nằm với một người gái đồng trinh chưa hứa giá, thì kẻ đó phải nộp tiền sính và cưới nàng làm vợ. [17] Nhược bằng cha nàng quyết từ chối không gả, thì kẻ đó phải nộp tiền bằng số tiền sính của người gái đồng trinh. [18] Ngươi chớ để các đồng cốt sống. [19] Kẻ nào nằm cùng một con vật sẽ bị xử tử. [20] Kẻ nào tế các thần khác hơn một mình Ðức Giê-hô-va sẽ bị diệt. [21] Ngươi chớ nên bạc đãi khách ngoại bang, và cũng chẳng nên hà hiếp họ, vì các ngươi đã làm khách kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô. [22] Các ngươi chớ ức hiếp một người góa bụa hay là một kẻ mồ côi nào. [23] Nếu ức hiếp họ, và họ kêu van ta, chắc ta sẽ nghe tiếng kêu của họ; [24] cơn nóng giận ta phừng lên, sẽ lấy gươm giết các ngươi, thì vợ các ngươi sẽ trở nên góa bụa, và con các ngươi sẽ mồ côi. [25] Trong dân ta có kẻ nghèo nàn ở cùng ngươi, nếu ngươi cho người mượn tiền, chớ xử với họ như người cho vay, và cũng chẳng nên bắt họ chịu lời. [26] Nếu ngươi cầm áo xống của kẻ lân cận mình làm của tin, thì phải trả cho họ trước khi mặt trời lặn; [27] vì là đồ chỉ có che thân, là áo xống che đậy da mình; người lấy chi mà ngủ? Nếu người đến kêu van ta, tất ta sẽ nghe lời người, vì ta là Ðấng hay thương xót. [28] Ngươi chớ nên nói lộng ngôn cùng Ðức Chúa Trời, và cũng đừng rủa sả vua chúa của dân sự ngươi. [29] Ngươi chớ trễ nải mà dâng cho ta những hoa quả đầu mùa của ngươi chứa trong vựa và rượu ép chảy nơi bàn ép. Ngươi cũng phải dâng cho ta con trai đầu lòng ngươi. [30] Về phần chiên và bò ngươi cũng hãy làm như vậy; trong bảy ngày đầu, con đầu lòng ở cùng mẹ nó, qua ngày thứ tám ngươi hãy dâng nó cho ta. [31] Các ngươi sẽ làm người thánh của ta, chớ nên ăn thịt chi bị thú rừng xé ở ngoài đồng; hãy liệng cho chó ăn. |
Chapter 23
Chương 23
[1] "Do not spread false reports. Do not help a wicked man by being a malicious witness.
[2] "Do not follow the crowd in doing wrong. When you give testimony in a lawsuit, do not pervert justice by siding with the crowd, [3] and do not show favoritism to a poor man in his lawsuit. [4] "If you come across your enemy's ox or donkey wandering off, be sure to take it back to him. [5] If you see the donkey of someone who hates you fallen down under its load, do not leave it there; be sure you help him with it. [6] "Do not deny justice to your poor people in their lawsuits. [7] Have nothing to do with a false charge and do not put an innocent or honest person to death, for I will not acquit the guilty. [8] "Do not accept a bribe, for a bribe blinds those who see and twists the words of the righteous. [9] "Do not oppress an alien; you yourselves know how it feels to be aliens, because you were aliens in Egypt. [10] "For six years you are to sow your fields and harvest the crops, [11] but during the seventh year let the land lie unplowed and unused. Then the poor among your people may get food from it, and the wild animals may eat what they leave. Do the same with your vineyard and your olive grove. [12] "Six days do your work, but on the seventh day do not work, so that your ox and your donkey may rest and the slave born in your household, and the alien as well, may be refreshed. [13] "Be careful to do everything I have said to you. Do not invoke the names of other gods; do not let them be heard on your lips. [14] "Three times a year you are to celebrate a festival to me. [15] "Celebrate the Feast of Unleavened Bread; for seven days eat bread made without yeast, as I commanded you. Do this at the appointed time in the month of Abib, for in that month you came out of Egypt. "No one is to appear before me empty-handed. [16] "Celebrate the Feast of Harvest with the firstfruits of the crops you sow in your field. "Celebrate the Feast of Ingathering at the end of the year, when you gather in your crops from the field. [17] "Three times a year all the men are to appear before the Sovereign LORD. [18] "Do not offer the blood of a sacrifice to me along with anything containing yeast. "The fat of my festival offerings must not be kept until morning. [19] "Bring the best of the firstfruits of your soil to the house of the LORD your God. "Do not cook a young goat in its mother's milk. [20] "See, I am sending an angel ahead of you to guard you along the way and to bring you to the place I have prepared. [21] Pay attention to him and listen to what he says. Do not rebel against him; he will not forgive your rebellion, since my Name is in him. [22] If you listen carefully to what he says and do all that I say, I will be an enemy to your enemies and will oppose those who oppose you. [23] My angel will go ahead of you and bring you into the land of the Amorites, Hittites, Perizzites, Canaanites, Hivites and Jebusites, and I will wipe them out. [24] Do not bow down before their gods or worship them or follow their practices. You must demolish them and break their sacred stones to pieces. [25] Worship the LORD your God, and his blessing will be on your food and water. I will take away sickness from among you, [26] and none will miscarry or be barren in your land. I will give you a full life span. [27] "I will send my terror ahead of you and throw into confusion every nation you encounter. I will make all your enemies turn their backs and run. [28] I will send the hornet ahead of you to drive the Hivites, Canaanites and Hittites out of your way. [29] But I will not drive them out in a single year, because the land would become desolate and the wild animals too numerous for you. [30] Little by little I will drive them out before you, until you have increased enough to take possession of the land. [31] "I will establish your borders from the Red Sea to the Sea of the Philistines, and from the desert to the River. I will hand over to you the people who live in the land and you will drive them out before you. [32] Do not make a covenant with them or with their gods. [33] Do not let them live in your land, or they will cause you to sin against me, because the worship of their gods will certainly be a snare to you." |
[1] Ngươi chớ đồn huyễn; chớ hùa cùng kẻ hung ác đặng làm chứng dối.
[2] Ngươi chớ hùa đảng đông đặng làm quấy; khi ngươi làm chứng trong việc kiện cáo, chớ nên trở theo bên phe đông mà phạm sự công bình. [3] Ngươi chớ tư vị kẻ nghèo trong việc kiện cáo. [4] Nhược bằng ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù nghịch mình đi lạc thì buộc phải đem về cho họ. [5] Ngộ ngươi thấy lừa của kẻ ghét mình bị chở nặng phải quị, chớ khá bỏ ngơ, phải cứu nó cho được nhẹ. [6] Trong cơn kiện cáo, ngươi chớ phạm quyền lợi của người nghèo ở giữa vòng ngươi. [7] Ngươi phải tránh xa các lời giả dối; chớ giết kẻ vô tội và kẻ công bình, vì ta chẳng hề tha kẻ gian ác đâu. [8] Ngươi chớ nhậm của hối lộ, vì của hối lộ làm mờ mắt người thượng trí, và làm mất duyên do của kẻ công bình. [9] Ngươi chớ hiếp đáp người ngoại bang, vì các ngươi đã kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô, chính các ngươi hiểu biết lòng khách ngoại bang là thế nào. [10] Trải sáu năm ngươi hãy gieo trong đất, thâu lấy hoa lợi, [11] nhưng qua năm thứ bảy hãy để đất hoang cho nghỉ; hầu cho kẻ nghèo khổ trong dân sự ngươi được nhờ lấy hoa quả đất đó, còn dư lại bao nhiêu, thú vật ngoài đồng ăn lấy. Cũng hãy làm như vậy về vườn nho và cây ô-li-ve. [12] Luôn trong sáu ngày ngươi hãy làm công việc mình, nhưng qua ngày thứ bảy hãy nghỉ, hầu cho bò và lừa ngươi được nghỉ; cùng con trai của đầy tớ gái và người ngoại bang được dưỡng sức lại. [13] Ngươi khá giữ hết mọi lời ta phán cùng ngươi. Chớ xưng đến danh các thần khác; chớ cho nghe danh đó ở nơi miệng ngươi ra. [14] Mỗi năm ba kỳ ngươi sẽ giữ lễ kính ta. [15] Ngươi hãy giữ lễ bánh không men; phải ăn bánh không men trong bảy ngày về mùa tháng lúa trỗ, như lời ta đã phán dặn; vì trong tháng đó ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Lại chẳng ai nên tay không đến trước mặt ta. [16] Ngươi hãy giữ lễ mùa màng, tức là mùa hoa quả đầu tiên của công lao ngươi về các giống ngươi đã gieo ngoài đồng; và giữ lễ mùa gặt về lúc cuối năm, khi các ngươi đã hái hoa quả của công lao mình ngoài đồng rồi. [17] Mỗi năm ba kỳ các người nam phải đến trước mặt Chúa, tức là Ðức Giê-hô-va. [18] Ngươi chớ dâng huyết của con sinh tế ta chung với bánh có pha men; còn mỡ của nó dâng nhằm ngày lễ kính ta, chớ để trọn đêm đến sáng mai. [19] Những hoa quả đầu mùa của đất, ngươi phải đem đến đền thờ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi. Ngươi chớ nên nấu dê con trong sữa mẹ nó. [20] Ðây nầy, ta sai một thiên sứ đi trước mặt ngươi, đặng phù hộ trong lúc đi đường, và đưa ngươi vào nơi ta đã dự bị. [21] Trước mặt người, ngươi khá giữ mình, phải nghe theo lời, chớ nên phản nghịch; người sẽ chẳng tha tội ngươi đâu, vì danh ta ngự trong mình người. [22] Nhưng nếu ngươi chăm chỉ nghe lời người, cùng làm theo mọi lời ta sẽ phán, ta sẽ thù nghịch cùng kẻ thù nghịch ngươi, và đối địch với kẻ đối địch ngươi. [23] Vì thiên sứ ta sẽ đi trước mắt, đưa ngươi vào xứ của dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Ca-na-an, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, rồi ta sẽ diệt chúng nó. [24] Ngươi chớ quì lạy và hầu việc các thần chúng nó; chớ bắt chước công việc họ, nhưng phải diệt hết các thần đó và đạp nát các pho tượng họ đi. [25] Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi; Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng ngươi. [26] Trong xứ ngươi sẽ chẳng có đàn bà sảo thai hay là đàn bà son sẻ. Ta sẽ cho ngươi được trường thọ. [27] Ta sẽ sai sự kinh khiếp ta đi trước, hễ ngươi đến dân nào, ta sẽ làm cho dân ấy vỡ chạy lạc đường, và cho kẻ thù nghịch ngươi xây lưng trước mặt ngươi. [28] Ta sẽ sai ong lỗ đi trước đánh đuổi dân Hê-vít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít khỏi trước mặt ngươi. [29] Ta sẽ chẳng đuổi chúng nó đi hết trong một năm đâu, e khi xứ sẽ trở nên đồng vắng, và loài thú rừng sanh sản ra đông, hại ngươi chăng; [30] nhưng ta sẽ đuổi chúng nó lần lần khỏi trước mặt ngươi, cho đến chừng nào số ngươi thêm nhiều và có thể cầm đất đó làm sản nghiệp. [31] Ta sẽ phân định bờ cõi ngươi từ Biển đỏ chí biển Phi-li-tin, từ đồng vắng đến sông cái; vì ta sẽ giao phú dân đó vào tay ngươi, và ngươi sẽ đuổi chúng nó khỏi mặt mình. [32] Ngươi đừng kết giao ước cùng chúng nó, hoặc cùng các thần của chúng nó. [33] Họ sẽ chẳng ở trong xứ ngươi đâu, e khi chúng nó xui cho ngươi phạm tội cùng ta mà hầu việc các thần họ chăng; điều đó chắc sẽ thành một cái bẫy cho ngươi vậy. |
Chapter 24
Chương 24
[1] Then he said to Moses, "Come up to the LORD, you and Aaron, Nadab and Abihu, and seventy of the elders of Israel. You are to worship at a distance,
[2] but Moses alone is to approach the LORD; the others must not come near. And the people may not come up with him." [3] When Moses went and told the people all the LORD's words and laws, they responded with one voice, "Everything the LORD has said we will do." [4] Moses then wrote down everything the LORD had said. He got up early the next morning and built an altar at the foot of the mountain and set up twelve stone pillars representing the twelve tribes of Israel. [5] Then he sent young Israelite men, and they offered burnt offerings and sacrificed young bulls as fellowship offerings to the LORD. [6] Moses took half of the blood and put it in bowls, and the other half he sprinkled on the altar. [7] Then he took the Book of the Covenant and read it to the people. They responded, "We will do everything the LORD has said; we will obey." [8] Moses then took the blood, sprinkled it on the people and said, "This is the blood of the covenant that the LORD has made with you in accordance with all these words." [9] Moses and Aaron, Nadab and Abihu, and the seventy elders of Israel went up [10] and saw the God of Israel. Under his feet was something like a pavement made of sapphire, clear as the sky itself. [11] But God did not raise his hand against these leaders of the Israelites; they saw God, and they ate and drank. [12] The LORD said to Moses, "Come up to me on the mountain and stay here, and I will give you the tablets of stone, with the law and commands I have written for their instruction." [13] Then Moses set out with Joshua his aide, and Moses went up on the mountain of God. [14] He said to the elders, "Wait here for us until we come back to you. Aaron and Hur are with you, and anyone involved in a dispute can go to them." [15] When Moses went up on the mountain, the cloud covered it, [16] and the glory of the LORD settled on Mount Sinai. For six days the cloud covered the mountain, and on the seventh day the LORD called to Moses from within the cloud. [17] To the Israelites the glory of the LORD looked like a consuming fire on top of the mountain. [18] Then Moses entered the cloud as he went on up the mountain. And he stayed on the mountain forty days and forty nights. |
[1] Ðức Chúa Trời phán cùng Môi-se rằng: Ngươi và A-rôn, Na-đáp, và A-bi-hu cùng bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên hãy lên cùng Ðức Giê-hô-va ở đằng xa mà lạy.
[2] Chỉ một mình Môi-se sẽ đến gần Ðức Giê-hô-va mà thôi, còn họ không đến gần, và dân sự cùng không lên cùng người. [3] Môi-se bèn đến thuật lại cho dân sự mọi lời phán của Ðức Giê-hô-va và các luật lệ, thì chúng đồng thinh đáp rằng: Chúng tôi sẽ làm mọi lời Ðức Giê-hô-va phán dạy. [4] Môi-se chép hết mọi lời của Ðức Giê-hô-va; rồi dậy sớm, xây một bàn thờ nơi chân núi, dựng mười hai cây trụ chỉ về mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. [5] Người sai kẻ trai trẻ của dân Y-sơ-ra-ên đi dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân cho Ðức Giê-hô-va bằng con bò tơ. [6] Môi-se lấy phân nửa huyết đựng trong các chậu, còn phân nửa thì rưới trên bàn thờ. [7] Ðoạn, người cầm quyển sách giao ước đọc cho dân sự nghe, thì dân sự nói rằng: Chúng tôi sẽ làm và vâng theo mọi lời Ðức Giê-hô-va phán chỉ. [8] Môi-se bèn lấy huyết rưới trên mình dân sự mà nói rằng: Ðây là huyết giao ước của Ðức Giê-hô-va đã lập cùng các ngươi y theo mọi lời nầy. [9] Ðoạn, Môi-se và A-rôn, Na-đáp và A-bi-hu cùng bảy mươi trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên đều lên núi, [10] ngó thấy Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, dưới chân Ngài có một vật giống bích ngọc trong ngần, khác nào như sắc trời thanh-quang. [11] Ngài chẳng tra tay vào những người tôn trọng trong vòng dân Y-sơ-ra-ên; nhưng họ ngó thấy Ðức Chúa Trời, thì ăn và uống. [12] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy lên núi, đến cùng ta và ở lại đó; ta sẽ ban cho ngươi bảng đá, luật pháp và các điều răn của ta đã chép đặng dạy dân sự. [13] Môi-se bèn chờ dậy cùng Giô-suê, kẻ hầu mình, rồi Môi-se đi lên núi Ðức Chúa Trời. [14] Người bèn nói cùng các trưởng lão rằng: Hãy đợi chúng tôi tại đây cho đến chừng nào trở về cùng các ngươi. Nầy, A-rôn và Hu-rơ ở lại cùng các ngươi, ai có việc chi hãy hỏi hai người đó. [15] Vậy, Môi-se lên núi, mây che phủ núi. [16] Sự vinh quang của Ðức Giê-hô-va ở tại núi Si-na-i; trong sáu ngày mây phủ núi, qua ngày thứ bảy Ðức Giê-hô-va ngự trong đám mây gọi Môi-se. [17] Cảnh trạng của sự vinh quang Ðức Giê-hô-va nơi đỉnh núi, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, khác nào như đám lửa hừng. [18] Môi-se vào giữa đám mây, lên núi, ở tại đó trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. |
Chapter 25
Chương 25
[1] The LORD said to Moses,
[2] "Tell the Israelites to bring me an offering. You are to receive the offering for me from each man whose heart prompts him to give. [3] These are the offerings you are to receive from them: gold, silver and bronze; [4] blue, purple and scarlet yarn and fine linen; goat hair; [5] ram skins dyed red and hides of sea cows; acacia wood; [6] olive oil for the light; spices for the anointing oil and for the fragrant incense; [7] and onyx stones and other gems to be mounted on the ephod and breastpiece. [8] "Then have them make a sanctuary for me, and I will dwell among them. [9] Make this tabernacle and all its furnishings exactly like the pattern I will show you. [10] "Have them make a chest of acacia wood-- two and a half cubits long, a cubit and a half wide, and a cubit and a half high. [11] Overlay it with pure gold, both inside and out, and make a gold molding around it. [12] Cast four gold rings for it and fasten them to its four feet, with two rings on one side and two rings on the other. [13] Then make poles of acacia wood and overlay them with gold. [14] Insert the poles into the rings on the sides of the chest to carry it. [15] The poles are to remain in the rings of this ark; they are not to be removed. [16] Then put in the ark the Testimony, which I will give you. [17] "Make an atonement cover of pure gold-- two and a half cubits long and a cubit and a half wide. [18] And make two cherubim out of hammered gold at the ends of the cover. [19] Make one cherub on one end and the second cherub on the other; make the cherubim of one piece with the cover, at the two ends. [20] The cherubim are to have their wings spread upward, overshadowing the cover with them. The cherubim are to face each other, looking toward the cover. [21] Place the cover on top of the ark and put in the ark the Testimony, which I will give you. [22] There, above the cover between the two cherubim that are over the ark of the Testimony, I will meet with you and give you all my commands for the Israelites. [23] "Make a table of acacia wood-- two cubits long, a cubit wide and a cubit and a half high. [24] Overlay it with pure gold and make a gold molding around it. [25] Also make around it a rim a handbreadth wide and put a gold molding on the rim. [26] Make four gold rings for the table and fasten them to the four corners, where the four legs are. [27] The rings are to be close to the rim to hold the poles used in carrying the table. [28] Make the poles of acacia wood, overlay them with gold and carry the table with them. [29] And make its plates and dishes of pure gold, as well as its pitchers and bowls for the pouring out of offerings. [30] Put the bread of the Presence on this table to be before me at all times. [31] "Make a lampstand of pure gold and hammer it out, base and shaft; its flowerlike cups, buds and blossoms shall be of one piece with it. [32] Six branches are to extend from the sides of the lampstand-- three on one side and three on the other. [33] Three cups shaped like almond flowers with buds and blossoms are to be on one branch, three on the next branch, and the same for all six branches extending from the lampstand. [34] And on the lampstand there are to be four cups shaped like almond flowers with buds and blossoms. [35] One bud shall be under the first pair of branches extending from the lampstand, a second bud under the second pair, and a third bud under the third pair-- six branches in all. [36] The buds and branches shall all be of one piece with the lampstand, hammered out of pure gold. [37] "Then make its seven lamps and set them up on it so that they light the space in front of it. [38] Its wick trimmers and trays are to be of pure gold. [39] A talent of pure gold is to be used for the lampstand and all these accessories. [40] See that you make them according to the pattern shown you on the mountain. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
[2] Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên đặng họ dâng lễ vật cho ta; các ngươi hãy nhận lấy lễ vật của mọi người có lòng thành dâng cho. [3] Nầy là lễ vật các ngươi sẽ nhận lấy của họ: vàng, bạc, và đồng; [4] chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, [5] da cá nược, cây si-tim, [6] dầu thắp, hương liệu đặng làm dầu xức và hương, [7] bích ngọc cùng các thứ ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực. [8] Họ sẽ làm cho ta một đền thánh và ta sẽ ở giữa họ. [9] Hãy làm điều đó y như kiểu đền tạm cùng kiểu các đồ dùng mà ta sẽ chỉ cho ngươi. [10] Vậy, chúng hãy đóng một cái hòm bằng cây si-tim; bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao cũng một thước rưỡi, [11] lấy vàng ròng bọc trong, bọc ngoài, và chạy đường viền chung quanh hòm bằng vàng. [12] Ngươi cũng hãy đúc bốn khoen bằng vàng để tại bốn góc hòm: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia, [13] cùng làm hai cây đòn bằng cây si-tim, bọc vàng; [14] rồi lòn đòn vào khoen hai bên hông hòm, để dùng đòn khiêng hòm. [15] Ðòn sẽ ở trong khoen luôn, không nên rút ra. [16] Ngươi hãy cất vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho. [17] Ngươi cũng hãy làm một cái nắp thi ân bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. [18] Lại làm hai tượng chê-ru-bin bằng vàng giát mỏng, để hai đầu nắp thi ân, [19] ló ra ngoài, một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia. [20] Hai chê-ru-bin sẽ sè cánh ra, che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân. [21] Ngươi hãy để nắp thi ân trên hòm, rồi để vào trong hòm bảng chứng mà ta sẽ ban cho. [22] Ta sẽ gặp ngươi tại đó, và ở trên nắp thi ân, giữa hai tượng chê-ru-bin, trên hòm bảng chứng, ta sẽ truyền cho ngươi các mạng lịnh về dân Y-sơ-ra-ên. [23] Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn bằng cây si-tim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, và bề cao một thước rưỡi, [24] bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung quanh; [25] rồi lên be cho tứ vi bàn, cao chừng bốn ngón tay và chạy cho be một đường viền vàng. [26] Lại đúc bốn cái khoen vàng, tra vào bốn góc nơi chân bàn. [27] Khoen sẽ ở gần be, để xỏ đòn khiêng bàn. [28] Ngươi hãy chuốt đòn bằng cây si-tim, bọc vàng, rồi người ta sẽ dùng khiêng bàn đó. [29] Lại hãy lấy vàng ròng mà làm dĩa, chén, chậu, và ly đặng dùng làm lễ quán. [30] Trên bàn ngươi sẽ để bánh trần thiết cho có luôn luôn trước mặt ta. [31] Ngươi cũng hãy làm chân đèn bằng vàng ròng. Cái chân, cái thân, cái đài, cái bầu cùng cái hoa của đèn đều làm bằng vàng đánh giát. [32] Hai bên thân đèn sẽ có sáu nhánh nứt ra, hạ nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. [33] Trong sáu nhánh nứt ra trên chân đèn, mỗi nhánh đều sẽ có ba cái đài hình như hột hạnh nhân cùng bầu và hoa. [34] Trên thân chân đèn, lại cũng sẽ có bốn cái đài hình hột hạnh nhân, bầu và hoa. [35] Trong sáu nhánh từ thân chân đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh thì dưới có một cái bầu. [36] Bầu cùng nhánh của chân đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh giát. [37] Ngươi cũng hãy làm bảy cái thếp đèn, đặng hễ khi thắp thì chiếu trước chân đèn. [38] Kéo bắt tim cùng đồ đựng tàn đèn cũng sẽ bằng vàng ròng. [39] Người ta sẽ dùng một ta lâng vàng ròng làm chân đèn nầy và các đồ phụ tùng của chân đèn. [40] Vậy, ngươi hãy xem, cứ làm y như kiểu đã chỉ cho trên núi. |
Chapter 26
Chương 26
[1] "Make the tabernacle with ten curtains of finely twisted linen and blue, purple and scarlet yarn, with cherubim worked into them by a skilled craftsman.
[2] All the curtains are to be the same size-- twenty-eight cubits long and four cubits wide. [3] Join five of the curtains together, and do the same with the other five. [4] Make loops of blue material along the edge of the end curtain in one set, and do the same with the end curtain in the other set. [5] Make fifty loops on one curtain and fifty loops on the end curtain of the other set, with the loops opposite each other. [6] Then make fifty gold clasps and use them to fasten the curtains together so that the tabernacle is a unit. [7] "Make curtains of goat hair for the tent over the tabernacle-- eleven altogether. [8] All eleven curtains are to be the same size-- thirty cubits long and four cubits wide. [9] Join five of the curtains together into one set and the other six into another set. Fold the sixth curtain double at the front of the tent. [10] Make fifty loops along the edge of the end curtain in one set and also along the edge of the end curtain in the other set. [11] Then make fifty bronze clasps and put them in the loops to fasten the tent together as a unit. [12] As for the additional length of the tent curtains, the half curtain that is left over is to hang down at the rear of the tabernacle. [13] The tent curtains will be a cubit longer on both sides; what is left will hang over the sides of the tabernacle so as to cover it. [14] Make for the tent a covering of ram skins dyed red, and over that a covering of hides of sea cows. [15] "Make upright frames of acacia wood for the tabernacle. [16] Each frame is to be ten cubits long and a cubit and a half wide, [17] with two projections set parallel to each other. Make all the frames of the tabernacle in this way. [18] Make twenty frames for the south side of the tabernacle [19] and make forty silver bases to go under them-- two bases for each frame, one under each projection. [20] For the other side, the north side of the tabernacle, make twenty frames [21] and forty silver bases-- two under each frame. [22] Make six frames for the far end, that is, the west end of the tabernacle, [23] and make two frames for the corners at the far end. [24] At these two corners they must be double from the bottom all the way to the top, and fitted into a single ring; both shall be like that. [25] So there will be eight frames and sixteen silver bases-- two under each frame. [26] "Also make crossbars of acacia wood: five for the frames on one side of the tabernacle, [27] five for those on the other side, and five for the frames on the west, at the far end of the tabernacle. [28] The center crossbar is to extend from end to end at the middle of the frames. [29] Overlay the frames with gold and make gold rings to hold the crossbars. Also overlay the crossbars with gold. [30] "Set up the tabernacle according to the plan shown you on the mountain. [31] "Make a curtain of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen, with cherubim worked into it by a skilled craftsman. [32] Hang it with gold hooks on four posts of acacia wood overlaid with gold and standing on four silver bases. [33] Hang the curtain from the clasps and place the ark of the Testimony behind the curtain. The curtain will separate the Holy Place from the Most Holy Place. [34] Put the atonement cover on the ark of the Testimony in the Most Holy Place. [35] Place the table outside the curtain on the north side of the tabernacle and put the lampstand opposite it on the south side. [36] "For the entrance to the tent make a curtain of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen-- the work of an embroiderer. [37] Make gold hooks for this curtain and five posts of acacia wood overlaid with gold. And cast five bronze bases for them. |
[1] Ngươi hãy dùng mười bức màn mà làm đền tạm, màn dệt bằng vải gai mịn, chỉ tím, đỏ điều và đỏ sặm, có thêu các hình chê-ru-bin cực xảo.
[2] Mỗi bức màn bề dài hai mươi tám thước, bề rộng bốn thước. Các bức đều đồng cỡ với nhau. [3] Mỗi năm bức màn sẽ kết dính lại nhau. [4] Ngươi hãy thắt vòng chỉ tím nơi triêng của bức màn thứ nhất ở đầu bức nguyên; và cũng làm như vậy cho đầu chót của bức màn cuối trong bức nguyên thứ nhì. [5] Lại làm năm chục cái vòng cho bức màn thứ nhất, và năm chục cái vòng nơi đầu triêng bức nguyên thứ nhì; các vòng hai bên sẽ đối nhau. [6] Cũng hãy làm năm mươi cái móc bằng vàng, rồi móc bức nguyên nầy qua bức nguyên kia, hầu cho đền tạm kết lại thành một. [7] Ngươi cũng hãy kết mười một bức màn bằng lông dê, để dùng làm bong che trên đền tạm. [8] Bề dài mỗi bức màn ba chục thước, bề rộng bốn thước, mười một bức đồng một cỡ với nhau. [9] Ngươi hãy kết năm bức màn nầy riêng ra, và sáu bức màn kia riêng ra; nhưng hãy gấp đôi bức màn thứ sáu ở trước đền tạm. [10] Lại thắt năm chục cái vòng nơi triêng màn thứ nhất, ném về cuối của bức nguyên thứ nhất, và năm chục cái vòng nơi triêng màn của bức nguyên thứ nhì; [11] cũng làm năm chục cái móc bằng đồng, móc vào vòng, rồi hiệp cái bong lại, để nó thành ra một. [12] Nhưng còn dư, tức là phân nửa của bức màn dư trong bức bong nguyên, thì sẽ xủ xuống phía sau đền tạm; [13] phần bề dài dư trong các bức màn của bong, bên nầy một thước, bên kia một thước, thì sẽ xủ xuống hai bên hông đền tạm đặng che vậy. [14] Ngươi hãy làm một tấm lá phủ bằng da chiên đực nhuộm đỏ để trên bong, và kết một tấm lá phủ bằng da cá nược đắp lên trên nữa. [15] Ngươi cũng hãy làm những ván cho vách đền tạm bằng cây si-tim. [16] Mỗi tấm trướng mười thước, hoành một thước rưỡi, [17] có hai cái mộng liền nhau; hết thảy các tấm ván vách đền tạm ngươi cũng sẽ làm như vậy. [18] Về phía nam đền tạm, ngươi hãy làm hai mươi tấm ván; [19] dưới hai mươi tấm ván hãy đặt bốn mươi lỗ mộng bằng bạc; cứ hai lỗ mộng ở dưới, để chịu hai cái mộng của mỗi tấm ván. [20] Lại hãy làm hai mươi tấm ván về phía bắc đền tạm, [21] và bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, cứ dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng. [22] Ngươi cũng hãy làm sáu tấm ván về phía sau đền tạm, tức là về hướng tây. [23] Về hai góc phía sau đền tạm, phải làm hai tấm ván, [24] khít nhau tự dưới chí trên bởi một cái khoen ở nơi đầu; hai cái góc đều làm như vậy. [25] Thế thì, có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc; cứ hai lỗ mộng ở dưới mỗi một tấm ván. [26] Lại, ngươi hãy làm năm cây xà ngang bằng gỗ si-tim cho những tấm ván về phía bên nầy, [27] năm cây xà ngang về phía bên kia và năm cây xà ngang khác nữa về phía sau của đền tạm, tức là hướng tây. [28] Cây xà ngang giữa sẽ ở về thân giữa những tấm ván, chạy suốt từ đầu nầy đến đầu kia. [29] Cũng hãy lấy vàng bọc ván cùng xà ngang, và làm những khoen bằng vàng, đặng xỏ các cây xà ngang. [30] Ngươi phải dựng đền tạm y như kiểu đã chỉ cho ngươi trên núi vậy. [31] Ngươi hãy làm một bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu những hình chê-ru-bin cực xảo; [32] rồi xủ màn đó trên bốn trụ bằng cây si-tim, bọc vàng, dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc; các móc trụ đều bằng vàng. [33] Ngươi sẽ treo màn đó vào móc dưới bức bong, rồi ở phía trong màn để hòm bảng chứng; màn nầy dùng phân biệt cho các ngươi nơi thánh và nơi chí thánh. [34] Ðoạn, hãy để cái nắp thi ân trên hòm bảng chứng, đặt trong nơi chí thánh. [35] Bên ngoài bức màn về phía bắc đền tạm thì để cái bàn; còn cây chân đèn thì để về phía nam đối ngang cái bàn. [36] Về cửa Trại ngươi hãy làm một bức màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai đậu mịn, có thêu cực xảo; [37] rồi làm cho bức màn nầy năm cái trụ bằng cây si-tim, bọc vàng; đinh nó cũng bằng vàng, và đúc năm lỗ trụ bằng đồng. |
Chapter 27
Chương 27
[1] "Build an altar of acacia wood, three cubits high; it is to be square, five cubits long and five cubits wide.
[2] Make a horn at each of the four corners, so that the horns and the altar are of one piece, and overlay the altar with bronze. [3] Make all its utensils of bronze-- its pots to remove the ashes, and its shovels, sprinkling bowls, meat forks and firepans. [4] Make a grating for it, a bronze network, and make a bronze ring at each of the four corners of the network. [5] Put it under the ledge of the altar so that it is halfway up the altar. [6] Make poles of acacia wood for the altar and overlay them with bronze. [7] The poles are to be inserted into the rings so they will be on two sides of the altar when it is carried. [8] Make the altar hollow, out of boards. It is to be made just as you were shown on the mountain. [9] "Make a courtyard for the tabernacle. The south side shall be a hundred cubits long and is to have curtains of finely twisted linen, [10] with twenty posts and twenty bronze bases and with silver hooks and bands on the posts. [11] The north side shall also be a hundred cubits long and is to have curtains, with twenty posts and twenty bronze bases and with silver hooks and bands on the posts. [12] "The west end of the courtyard shall be fifty cubits wide and have curtains, with ten posts and ten bases. [13] On the east end, toward the sunrise, the courtyard shall also be fifty cubits wide. [14] Curtains fifteen cubits long are to be on one side of the entrance, with three posts and three bases, [15] and curtains fifteen cubits long are to be on the other side, with three posts and three bases. [16] "For the entrance to the courtyard, provide a curtain twenty cubits long, of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen-- the work of an embroiderer-- with four posts and four bases. [17] All the posts around the courtyard are to have silver bands and hooks, and bronze bases. [18] The courtyard shall be a hundred cubits long and fifty cubits wide, with curtains of finely twisted linen five cubits high, and with bronze bases. [19] All the other articles used in the service of the tabernacle, whatever their function, including all the tent pegs for it and those for the courtyard, are to be of bronze. [20] "Command the Israelites to bring you clear oil of pressed olives for the light so that the lamps may be kept burning. [21] In the Tent of Meeting, outside the curtain that is in front of the Testimony, Aaron and his sons are to keep the lamps burning before the LORD from evening till morning. This is to be a lasting ordinance among the Israelites for the generations to come. |
[1] Ngươi cũng hãy đóng một bàn thờ bằng cây si-tim, hình vuông, năm thước bề dài, năm thước bề ngang, và bề cao ba thước.
[2] Nơi bốn góc bàn thờ hãy làm sừng ló ra và bọc đồng. [3] Những đồ phụ tùng của bàn thờ thì hãy làm bằng đồng: bình đựng tro, vá, ảng, nỉa và bình hương. [4] Lại làm cho bàn thờ một tấm rá bằng lưới đồng; và nơi bốn góc rá làm bốn cái khoen bằng đồng; [5] rồi để rá đó dưới thành bàn thờ, từ dưới chân lên đến nửa bề cao. [6] Cũng hãy chuốt đòn khiêng bàn thờ bằng cây si-tim, bọc đồng, [7] rồi xỏ vào những khoen; khi khiêng đi, đòn sẽ ở hai bên bàn thờ. [8] Bàn thờ sẽ đóng bằng ván, trống bộng, làm y như đã chỉ cho ngươi trên núi vậy. [9] Ngươi cũng hãy làm cái hành lang cho đền tạm. Về phía nam của hành lang làm bố vi bằng vải gai đậu mịn, dài trăm thước, [10] cùng hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng; đinh và nuông trụ thì bằng bạc. [11] Về phía bắc cũng vậy; bố vi đó có trăm thước bề dài, hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng; đinh và nuông trụ thì bằng bạc. [12] Bố vi của hành lang về phía tây có năm chục thước bề dài, mười cây trụ và mười lỗ trụ. [13] Bề ngang của hành lang phía trước, tức là phía đông, có năm chục thước: phía hữu [14] có mười lăm thước bố vi, ba cây trụ và ba lỗ trụ; [15] phía tả có mười lăm thước bố vi, ba cây trụ và ba lỗ trụ. [16] Còn cửa hành lang có một bức màn dài hai chục thước bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu, cùng vốn cây trụ và bốn lỗ trụ. [17] Hết thảy trụ xung quanh hành lang đều sẽ có nhờ nuông bạc chắp lại với nhau; đinh trụ thì bằng bạc, lỗ trụ thì bằng đồng. [18] Bề dài của hành lang được một trăm thước, bề ngang, mỗi phía, năm chục thước, bề cao năm thước; bố vi sẽ bằng vải gai đậu mịn, còn những lỗ trụ thì bằng đồng. [19] Hết thảy đồ phụ tùng dùng về các việc phụng sự trong đền tạm, cùng cây nọc của đền tạm và cây nọc của hành lang, đều sẽ làm bằng đồng. [20] Ngươi hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem đến dầu lọc ô-li-ve ép, đặng thắp đèn cho đèn sáng luôn luôn. [21] Trong hội mạc, ở ngoài màn, trước hòm bảng chứng, A-rôn cùng các con trai người sẽ lo sửa soạn đèn, hầu cho trước mặt Ðức Giê-hô-va đèn cháy luôn luôn từ tối cho đến sáng. Ấy là một luật đời đời cho dòng dõi dân Y-sơ-ra-ên phải giữ. |
Chapter 28
Chương 28
[1] "Have Aaron your brother brought to you from among the Israelites, along with his sons Nadab and Abihu, Eleazar and Ithamar, so they may serve me as priests.
[2] Make sacred garments for your brother Aaron, to give him dignity and honor. [3] Tell all the skilled men to whom I have given wisdom in such matters that they are to make garments for Aaron, for his consecration, so he may serve me as priest. [4] These are the garments they are to make: a breastpiece, an ephod, a robe, a woven tunic, a turban and a sash. They are to make these sacred garments for your brother Aaron and his sons, so they may serve me as priests. [5] Have them use gold, and blue, purple and scarlet yarn, and fine linen. [6] "Make the ephod of gold, and of blue, purple and scarlet yarn, and of finely twisted linen-- the work of a skilled craftsman. [7] It is to have two shoulder pieces attached to two of its corners, so it can be fastened. [8] Its skillfully woven waistband is to be like it-- of one piece with the ephod and made with gold, and with blue, purple and scarlet yarn, and with finely twisted linen. [9] "Take two onyx stones and engrave on them the names of the sons of Israel [10] in the order of their birth-- six names on one stone and the remaining six on the other. [11] Engrave the names of the sons of Israel on the two stones the way a gem cutter engraves a seal. Then mount the stones in gold filigree settings [12] and fasten them on the shoulder pieces of the ephod as memorial stones for the sons of Israel. Aaron is to bear the names on his shoulders as a memorial before the LORD. [13] Make gold filigree settings [14] and two braided chains of pure gold, like a rope, and attach the chains to the settings. [15] "Fashion a breastpiece for making decisions-- the work of a skilled craftsman. Make it like the ephod: of gold, and of blue, purple and scarlet yarn, and of finely twisted linen. [16] It is to be square-- a span long and a span wide-- and folded double. [17] Then mount four rows of precious stones on it. In the first row there shall be a ruby, a topaz and a beryl; [18] in the second row a turquoise, a sapphire and an emerald; [19] in the third row a jacinth, an agate and an amethyst; [20] in the fourth row a chrysolite, an onyx and a jasper. Mount them in gold filigree settings. [21] There are to be twelve stones, one for each of the names of the sons of Israel, each engraved like a seal with the name of one of the twelve tribes. [22] "For the breastpiece make braided chains of pure gold, like a rope. [23] Make two gold rings for it and fasten them to two corners of the breastpiece. [24] Fasten the two gold chains to the rings at the corners of the breastpiece, [25] and the other ends of the chains to the two settings, attaching them to the shoulder pieces of the ephod at the front. [26] Make two gold rings and attach them to the other two corners of the breastpiece on the inside edge next to the ephod. [27] Make two more gold rings and attach them to the bottom of the shoulder pieces on the front of the ephod, close to the seam just above the waistband of the ephod. [28] The rings of the breastpiece are to be tied to the rings of the ephod with blue cord, connecting it to the waistband, so that the breastpiece will not swing out from the ephod. [29] "Whenever Aaron enters the Holy Place, he will bear the names of the sons of Israel over his heart on the breastpiece of decision as a continuing memorial before the LORD. [30] Also put the Urim and the Thummim in the breastpiece, so they may be over Aaron's heart whenever he enters the presence of the LORD. Thus Aaron will always bear the means of making decisions for the Israelites over his heart before the LORD. [31] "Make the robe of the ephod entirely of blue cloth, [32] with an opening for the head in its center. There shall be a woven edge like a collar around this opening, so that it will not tear. [33] Make pomegranates of blue, purple and scarlet yarn around the hem of the robe, with gold bells between them. [34] The gold bells and the pomegranates are to alternate around the hem of the robe. [35] Aaron must wear it when he ministers. The sound of the bells will be heard when he enters the Holy Place before the LORD and when he comes out, so that he will not die. [36] "Make a plate of pure gold and engrave on it as on a seal: HOLY TO THE LORD. [37] Fasten a blue cord to it to attach it to the turban; it is to be on the front of the turban. [38] It will be on Aaron's forehead, and he will bear the guilt involved in the sacred gifts the Israelites consecrate, whatever their gifts may be. It will be on Aaron's forehead continually so that they will be acceptable to the LORD. [39] "Weave the tunic of fine linen and make the turban of fine linen. The sash is to be the work of an embroiderer. [40] Make tunics, sashes and headbands for Aaron's sons, to give them dignity and honor. [41] After you put these clothes on your brother Aaron and his sons, anoint and ordain them. Consecrate them so they may serve me as priests. [42] "Make linen undergarments as a covering for the body, reaching from the waist to the thigh. [43] Aaron and his sons must wear them whenever they enter the Tent of Meeting or approach the altar to minister in the Holy Place, so that they will not incur guilt and die. "This is to be a lasting ordinance for Aaron and his descendants. |
[1] Trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, ngươi hãy chọn A-rôn, anh ngươi, cùng các con trai ngươi, là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, lập lên làm chức tế lễ trước mặt ta.
[2] Ngươi hãy chế bộ áo thánh cho A-rôn, anh ngươi, để người được vinh hiển trang sức. [3] Hãy truyền cho hết thảy kẻ thông minh, là người ta đã ban đầy tính trí huệ, chế bộ áo cho A-rôn, đặng biệt người riêng ra thánh, hầu cho người làm chức tế lễ trước mặt ta. [4] Ðây là bộ áo mà họ sẽ chế: Bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lá trong thêu, mũ và đai. Thế thì, họ sẽ chế bộ áo thánh cho A-rôn, anh ngươi, cùng các con trai người, để các người đó làm chức tế lễ trước mặt ta. [5] Họ sẽ dùng kim tuyến, chỉ màu tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai mịn. [6] Họ sẽ chế ê-phót bằng kim tuyến, chỉ màu tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn thêu cực xảo. [7] Hai bên ê-phót làm hai đai vai, đâu đầu vào ê-phót. [8] Ðai để cột ê-phót ở phía ngoài, sẽ làm nguyên miếng một cũng như công việc ê-phót, bằng kim tuyến, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn. [9] Ngươi hãy lấy hai viên bích ngọc mà khắc các tên con trai Y-sơ-ra-ên ở trên: [10] sáu tên trên viên bích ngọc nầy, sáu tên trên viên bích ngọc kia, tùy theo thứ tự ngày sinh của họ. [11] Phải khắc các tên con trai Y-sơ-ra-ên trên hai viên bích ngọc đó, như cách của thợ khắc con dấu, và khảm trong khuôn bằng vàng. [12] Ðoạn gắn hai viên bích ngọc đó trên hai đai vai ê-phót, dùng làm ngọc kỷ niệm về con cháu Y-sơ-ra-ên; A-rôn sẽ mang tên của họ trên hai vai mình làm kỷ niệm trước mặt Ðức Giê-hô-va. [13] Ngươi cũng hãy làm móc gài bằng vàng, [14] đánh hai sợi dây chuyền nhỏ bằng vàng ròng như hình dây, rồi để chuyền đánh như thế vào móc gài. [15] Bảng đeo ngực về sự xét đoán, ngươi cũng phải làm cho cực xảo, y như ê-phót; tức là bằng kim tuyến, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn. [16] Bảng đeo ngực hình vuông và may lót; bề dài một em-ban, bề ngang một em-ban. [17] Ngươi hãy gắn bốn hàng ngọc vào bảng đeo ngực: hàng thứ nhất gắn ngọc mã não, ngọc hồng bích, và ngọc lục bửu; [18] hàng thứ nhì, ngọc phỉ túy, ngọc lam bửu và ngọc kim cương; [19] hàng thứ ba, ngọc hồng bửu, ngọc bạch mã não, và ngọc tử tinh; [20] hàng thứ tư, ngọc huỳnh bích, ngọc hồng mã não, và bích ngọc. Các ngọc nầy sẽ khảm vào khuôn bằng vàng. [21] Số các ngọc đó hết thảy là mười hai viên, tùy theo tên các con trai Y-sơ-ra-ên; trên mỗi viên ngọc sẽ khắc tên của một trong mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên, như người ta khắc con dấu vậy. [22] Ngươi hãy làm các sợi chuyền bằng vàng ròng đánh như hình dây, chuyền trên bảng đeo ngực; [23] rồi làm hai khoanh bằng vàng để ở hai góc đầu trên bảng. [24] cùng cột hai sợi chuyền vàng vào hai khoanh nơi hai đầu bảng, [25] và hai đầu sợi chuyền cột vào móc gài, đoạn gắn trên hai đai vai ê-phót về phía đằng trước ngực. [26] Ngươi cũng hãy làm hai cái khoanh bằng vàng nữa, để vào hai góc đầu dưới của bảng đeo ngực, về phía trong ê-phót. [27] Lại làm hai khoanh khác nữa bằng vàng, gắn vào hai đầu dưới đai vai ê-phót ném về phía trước, ở trên đai gần chỗ giáp mối. [28] Rồi một sợi dây màu tím sẽ cột hai cái khoanh của bảng đeo ngực lại cùng hai cái khoanh ê-phót, hầu cho nó dính với đai, đừng rớt khỏi ê-phót. [29] Thế thì, khi nào A-rôn vào nơi thánh, sẽ mang trên lòng mình tên các con trai Y-sơ-ra-ên nơi bảng đeo ngực về sự xét đoán, đặng giữ làm kỷ niệm luôn luôn trước mặt Ðức Giê-hô-va. [30] Trên bảng đeo ngực của sự xét đoán, ngươi hãy gắn u-rim và thu-mim vào, đặng khi A-rôn đến trước mặt Ðức Giê-hô-va thì các món đó sẽ ở trên lòng mình. Ấy vậy, trước mặt Ðức Giê-hô-va, A-rôn sẽ mang sự xét đoán của con trai Y-sơ-ra-ên trên lòng mình luôn luôn. [31] Ngươi cũng hãy may áo dài của ê-phót toàn bằng vải tím. [32] Ở giữa áo có một lỗ tròng đầu vào; viền chung quanh, dệt như lỗ áo giáp mặt lưới, để cho khỏi tét. [33] Nơi biên dưới hãy thắt trái lựu màu tím, đỏ điều, đỏ sặm, cùng chuông vàng nhỏ đan tréo nhau ở vòng theo viền, [34] nghĩa là một cái chuông rồi kế một trái lựu, ở vòng khắp chung quanh viền áo. [35] Khi A-rôn hầu việc tế lễ, sẽ mặc áo đó; và khi vào hay ra nơi thánh trước mặt Ðức Giê-hô-va, người ta sẽ nghe tiếng chuông vàng nhỏ, và A-rôn khỏi chết vậy. [36] Ngươi cũng hãy làm một cái thẻ bằng vàng ròng, trên đó khắc như người ta khắc con dấu, rằng: Thánh Cho Ðức Giê-hô-va. [37] Rồi lấy một sợi dây màu tím buộc thẻ đó để trên đằng trước cái mũ. [38] Thẻ đó sẽ ở trên trán A-rôn; A-rôn gánh tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên phạm trong khi họ dâng của lễ thánh; thẻ đó sẽ ở nơi trán A-rôn luôn luôn, để dân sự được đẹp ý Ðức Giê-hô-va. [39] Ngươi hãy chế một cái áo lá mặc trong bằng vải gai mịn, một cái mũ bằng vải gai mịn và một cái đai thêu. [40] Ngươi cũng hãy chế cho các con trai A-rôn áo lá, đai và mũ, hầu cho họ được vinh hiển và trang sức. [41] Ðoạn, hãy lấy các bộ áo đó mặc cho A-rôn, anh ngươi, cùng các con trai người; hãy xức dầu cho, lập và biệt riêng ra thánh, để họ làm chức tế lễ trước mặt ta. [42] Hãy chế cho họ quần lót trong bằng vải gai, đặng che sự lõa lồ, mặc từ ngang lưng quần cho đến bắp vế. [43] A-rôn cùng các con trai người sẽ mặc quần đó trong khi vào hội mạc hay là đến gần bàn thờ đặng làm việc tế lễ trong nơi thánh, thì chẳng mắc tội và chẳng chết đâu. Ấy là một mạng lịnh đời đời cho A-rôn và dòng dõi người. |
Chapter 29
Chương 29
[1] "This is what you are to do to consecrate them, so they may serve me as priests: Take a young bull and two rams without defect.
[2] And from fine wheat flour, without yeast, make bread, and cakes mixed with oil, and wafers spread with oil. [3] Put them in a basket and present them in it-- along with the bull and the two rams. [4] Then bring Aaron and his sons to the entrance to the Tent of Meeting and wash them with water. [5] Take the garments and dress Aaron with the tunic, the robe of the ephod, the ephod itself and the breastpiece. Fasten the ephod on him by its skillfully woven waistband. [6] Put the turban on his head and attach the sacred diadem to the turban. [7] Take the anointing oil and anoint him by pouring it on his head. [8] Bring his sons and dress them in tunics [9] and put headbands on them. Then tie sashes on Aaron and his sons. The priesthood is theirs by a lasting ordinance. In this way you shall ordain Aaron and his sons. [10] "Bring the bull to the front of the Tent of Meeting, and Aaron and his sons shall lay their hands on its head. [11] Slaughter it in the LORD's presence at the entrance to the Tent of Meeting. [12] Take some of the bull's blood and put it on the horns of the altar with your finger, and pour out the rest of it at the base of the altar. [13] Then take all the fat around the inner parts, the covering of the liver, and both kidneys with the fat on them, and burn them on the altar. [14] But burn the bull's flesh and its hide and its offal outside the camp. It is a sin offering. [15] "Take one of the rams, and Aaron and his sons shall lay their hands on its head. [16] Slaughter it and take the blood and sprinkle it against the altar on all sides. [17] Cut the ram into pieces and wash the inner parts and the legs, putting them with the head and the other pieces. [18] Then burn the entire ram on the altar. It is a burnt offering to the LORD, a pleasing aroma, an offering made to the LORD by fire. [19] "Take the other ram, and Aaron and his sons shall lay their hands on its head. [20] Slaughter it, take some of its blood and put it on the lobes of the right ears of Aaron and his sons, on the thumbs of their right hands, and on the big toes of their right feet. Then sprinkle blood against the altar on all sides. [21] And take some of the blood on the altar and some of the anointing oil and sprinkle it on Aaron and his garments and on his sons and their garments. Then he and his sons and their garments will be consecrated. [22] "Take from this ram the fat, the fat tail, the fat around the inner parts, the covering of the liver, both kidneys with the fat on them, and the right thigh. (This is the ram for the ordination.) [23] From the basket of bread made without yeast, which is before the LORD, take a loaf, and a cake made with oil, and a wafer. [24] Put all these in the hands of Aaron and his sons and wave them before the LORD as a wave offering. [25] Then take them from their hands and burn them on the altar along with the burnt offering for a pleasing aroma to the LORD, an offering made to the LORD by fire. [26] After you take the breast of the ram for Aaron's ordination, wave it before the LORD as a wave offering, and it will be your share. [27] "Consecrate those parts of the ordination ram that belong to Aaron and his sons: the breast that was waved and the thigh that was presented. [28] This is always to be the regular share from the Israelites for Aaron and his sons. It is the contribution the Israelites are to make to the LORD from their fellowship offerings. [29] "Aaron's sacred garments will belong to his descendants so that they can be anointed and ordained in them. [30] The son who succeeds him as priest and comes to the Tent of Meeting to minister in the Holy Place is to wear them seven days. [31] "Take the ram for the ordination and cook the meat in a sacred place. [32] At the entrance to the Tent of Meeting, Aaron and his sons are to eat the meat of the ram and the bread that is in the basket. [33] They are to eat these offerings by which atonement was made for their ordination and consecration. But no one else may eat them, because they are sacred. [34] And if any of the meat of the ordination ram or any bread is left over till morning, burn it up. It must not be eaten, because it is sacred. [35] "Do for Aaron and his sons everything I have commanded you, taking seven days to ordain them. [36] Sacrifice a bull each day as a sin offering to make atonement. Purify the altar by making atonement for it, and anoint it to consecrate it. [37] For seven days make atonement for the altar and consecrate it. Then the altar will be most holy, and whatever touches it will be holy. [38] "This is what you are to offer on the altar regularly each day: two lambs a year old. [39] Offer one in the morning and the other at twilight. [40] With the first lamb offer a tenth of an ephah of fine flour mixed with a quarter of a hin of oil from pressed olives, and a quarter of a hin of wine as a drink offering. [41] Sacrifice the other lamb at twilight with the same grain offering and its drink offering as in the morning-- a pleasing aroma, an offering made to the LORD by fire. [42] "For the generations to come this burnt offering is to be made regularly at the entrance to the Tent of Meeting before the LORD. There I will meet you and speak to you; [43] there also I will meet with the Israelites, and the place will be consecrated by my glory. [44] "So I will consecrate the Tent of Meeting and the altar and will consecrate Aaron and his sons to serve me as priests. [45] Then I will dwell among the Israelites and be their God. [46] They will know that I am the LORD their God, who brought them out of Egypt so that I might dwell among them. I am the LORD their God. |
[1] Ðây là điều ngươi sẽ làm đặng biệt riêng A-rôn và con trai người riêng ra thánh, để họ làm chức tế lễ trước mặt ta.
[2] Hãy bắt một con bò tơ đực và hai con chiên đực không tì vít, dùng bột mì thiệt mịn làm bánh không men, bánh nhỏ không men nhồi với dầu, và bánh tráng không men tẩm dầu; [3] rồi để các bánh đó trong một giỏ dâng luôn lên cùng bò tơ đực và hai chiên đực. [4] Ðoạn, ngươi sẽ biểu A-rôn cùng các con trai người đến gần nơi cửa hội mạc, rồi lấy nước tắm cho họ. [5] Kế đó, lấy bộ áo mặc cho A-rôn, tức là áo lá mặc trong, áo dài của ê-phót, ê-phót, và bảng đeo ngực, rồi lấy đai của ê-phót thắt lưng cho người; [6] đoạn đội cái mũ lên đầu và để thẻ thánh trên mũ, [7] cùng lấy dầu xức đổ trên đầu và xức cho người. [8] Lại biểu các con trai A-rôn đến gần mặc áo lá cho họ, [9] rồi lấy đai thắt lưng và đội mũ cho A-rôn cùng các con trai người. Thế thì, chức tế lễ sẽ bởi mạng lịnh định đời đời cho họ. Ngươi lập A-rôn và các con trai người là thế. [10] Ðoạn, hãy dắt con bò tơ đực lại gần trước hội mạc, A-rôn cùng các con trai người sẽ nhận tay mình trên đầu con bò đó. [11] Ngươi hãy giết bò đực trước mặt Ðức Giê-hô-va, tại nơi cửa hội mạc; [12] rồi lấy huyết bò đó, nhúng ngón tay vào, bôi các sừng của bàn thờ, và đổ khắp dưới chân bàn thờ. [13] Cũng hãy lấy hết thảy những mỡ bọc ruột, tấm da mỏng bọc gan, hai trái cật và mỡ trên trái cật, mà đem xông trên bàn thờ. [14] Nhưng ở ngoài trại quân hãy thiêu hết thịt, da, và phẩn của con bò đực đó; ấy là một của lễ chuộc tội vậy. [15] Ngươi cũng hãy bắt một trong hai con chiên đực, A-rôn và các con trai ngươi sẽ nhận tay mình trên đầu nó; [16] rồi giết chiên đực đó, lấy huyết mà rưới khắp chung quanh trên bàn thờ. [17] Kế đó, sả chiên ra từng miếng, rửa sạch bộ lòng và giò đi, rồi để lên trên các miếng đã sả và đầu nó; [18] đoạn xông cả con chiên đực tại trên bàn thờ; ấy là một của lễ thiêu, có mùi thơm dâng cho Ðức Giê-hô-va, tức là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ðức Giê-hô-va vậy. [19] Ðoạn, ngươi hãy bắt con chiên đực thứ nhì, A-rôn cùng các con trai người sẽ nhận tay mình trên đầu nó; [20] rồi ngươi giết chiên đực đó, lấy huyết bôi nơi trái tai hữu của A-rôn và của các con trai người, trên ngón cái bàn tay mặt và ngón cái bàn chân mặt; huyết còn dư hãy rưới chung quanh trên bàn thờ. [21] Ngươi hãy lấy huyết ở nơi bàn thờ và dầu xức mà rảy trên mình và quần áo A-rôn, cùng trên mình và quần áo các con trai người. Như vậy, A-rôn cùng quần áo mình, các con trai người cùng quần áo họ sẽ được biệt riêng ra thánh. [22] Vì cớ chiên đực đó dùng làm lễ truyền chức, nên ngươi hãy lấy mỡ, đuôi, mỡ bọc ruột, tấm da mỏng bọc gan, hai trái cật, cùng mỡ trên trái cật và giò bên hữu, [23] lại lấy luôn một ổ bánh, một bánh nhỏ nhồi với dầu, và một cái bánh tráng ở trong giỏ bánh không men để trước mặt Ðức Giê-hô-va; [24] rồi ngươi để mấy món đó trong lòng bàn tay A-rôn, và trong lòng bàn tay của các con trai ngươi, mà đưa qua đưa lại trước mặt Ðức Giê-hô-va. [25] Ðoạn, hãy lấy ra khỏi bàn tay họ đem xông trên bàn thờ, ở trên của lễ thiêu, để cho có mùi thơm trước mặt Ðức Giê-hô-va; ấy là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ðức Giê-hô-va. [26] Cũng hãy lấy cái o chiên đực về lễ lập A-rôn mà đưa qua đưa lại trước mặt Ðức Giê-hô-va. Ấy sẽ về phần ngươi. [27] Vậy, ngươi sẽ biệt riêng ra thánh cái o và giò của chiên đực đã dùng làm lễ lập A-rôn cùng các con trai người, tức là o đã đưa qua đưa lại, và giò đã giơ lên. [28] Lễ vật nầy sẽ do nơi Y-sơ-ra-ên dâng cho A-rôn cùng các con trai người tùy theo mạng lịnh đời đời đã lập, vì là một điều ban cho bởi trong các của lễ thù ân của dân Y-sơ-ra-ên, tức là một của lễ giơ lên mà họ dâng cho Ðức Giê-hô-va vậy. [29] Những áo thánh của A-rôn sẽ để lại cho các con trai nối sau người, để họ mặc áo đó, được xức dầu và lập trong chức tế lễ. [30] Ai trong vòng con trai người được làm thầy tế lễ thế cho ngươi, mà đến hội mạc đặng hầu việc tại nơi thánh, thì sẽ mặc áo đó trong bảy ngày. [31] Ðoạn, ngươi hãy bắt con chiên đực dùng làm lễ thiết lập mà nấu thịt nó trong một nơi thánh. [32] A-rôn cùng các con trai người sẽ ăn thịt chiên đực đó, cùng bánh trong giỏ nơi cửa hội mạc. [33] Vậy, họ sẽ ăn các món nầy, bởi đó được chuộc tội, để lập và biệt họ riêng ra thánh; nhưng khách ngoại bang chẳng được ăn, vì các món đó đã biệt riêng ra thánh rồi. [34] Nếu thịt lễ thiết lập và bánh còn dư lại đến ngày mai, ngươi hãy thiêu trong lửa, chớ nên ăn, vì là của đã biệt riêng ra thánh. [35] Vậy, theo mọi điều ta phán dặn, ngươi hãy làm cho A-rôn cùng các con trai người, và lập họ trong bảy ngày. [36] Mỗi ngày hãy dâng một con bò tơ đực đặng chuộc tội, và dâng vì bàn thờ một của lễ chuộc tội cùng xức dầu cho để biệt bàn thờ riêng ra thánh. [37] Trong bảy ngày ngươi hãy làm lễ chuộc tội cho bàn thờ và biệt riêng ra thánh; bàn thờ sẽ trở nên rất thánh, phàm vật chi đụng đến đều sẽ được nên thánh vậy. [38] Ðây là các điều ngươi sẽ dâng lên bàn thờ: Hai chiên con một tuổi, mỗi ngày thường thường như vậy. [39] Buổi sớm mai ngươi hãy dâng một trong hai chiên con; con thứ nhì hãy dâng vào buổi chiều tối. [40] Với con chiên thứ nhất, hãy dâng một phần mười bột mì mịn nhồi với một phần tư hin dầu ép, và cùng lễ quán một phần tư hin rượu nho. [41] Về con chiên thứ nhì hãy dâng vào buổi chiều tối với một của lễ và một lễ quán y như lễ sớm mai; ấy là một của lễ thiêu, có mùi thơm dâng cho Ðức Giê-hô-va. [42] Ấy là một của lễ thiêu mà các ngươi phải dâng luôn luôn, trải qua các đời, tại cửa hội mạc trước mặt Ðức Giê-hô-va, là nơi ta sẽ giáng lâm mà phán cùng ngươi. [43] Vậy, ta sẽ có tại đó cùng dân Y-sơ-ra-ên; chỗ nầy sẽ vì sự vinh hiển ta mà được biệt riêng ra thánh. [44] Ta sẽ biệt hội mạc cùng bàn thờ riêng ra thánh; cùng biệt A-rôn và các con trai người riêng ra thánh nữa, đặng họ làm chức tế lễ trước mặt ta. [45] Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên, làm Ðức Chúa Trời dân ấy. [46] Dân ấy sẽ biết ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng nó, đã đem chúng nó ra khỏi xứ Ê-díp-tô đặng ở giữa vòng họ. Ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của họ. |
Chapter 30
Chương 30
[1] "Make an altar of acacia wood for burning incense.
[2] It is to be square, a cubit long and a cubit wide, and two cubits high--its horns of one piece with it. [3] Overlay the top and all the sides and the horns with pure gold, and make a gold molding around it. [4] Make two gold rings for the altar below the molding-- two on opposite sides-- to hold the poles used to carry it. [5] Make the poles of acacia wood and overlay them with gold. [6] Put the altar in front of the curtain that is before the ark of the Testimony-- before the atonement cover that is over the Testimony-- where I will meet with you. [7] "Aaron must burn fragrant incense on the altar every morning when he tends the lamps. [8] He must burn incense again when he lights the lamps at twilight so incense will burn regularly before the LORD for the generations to come. [9] Do not offer on this altar any other incense or any burnt offering or grain offering, and do not pour a drink offering on it. [10] Once a year Aaron shall make atonement on its horns. This annual atonement must be made with the blood of the atoning sin offering for the generations to come. It is most holy to the LORD." [11] Then the LORD said to Moses, [12] "When you take a census of the Israelites to count them, each one must pay the LORD a ransom for his life at the time he is counted. Then no plague will come on them when you number them. [13] Each one who crosses over to those already counted is to give a half shekel, according to the sanctuary shekel, which weighs twenty gerahs. This half shekel is an offering to the LORD. [14] All who cross over, those twenty years old or more, are to give an offering to the LORD. [15] The rich are not to give more than a half shekel and the poor are not to give less when you make the offering to the LORD to atone for your lives. [16] Receive the atonement money from the Israelites and use it for the service of the Tent of Meeting. It will be a memorial for the Israelites before the LORD, making atonement for your lives." [17] Then the LORD said to Moses, [18] "Make a bronze basin, with its bronze stand, for washing. Place it between the Tent of Meeting and the altar, and put water in it. [19] Aaron and his sons are to wash their hands and feet with water from it. [20] Whenever they enter the Tent of Meeting, they shall wash with water so that they will not die. Also, when they approach the altar to minister by presenting an offering made to the LORD by fire, [21] they shall wash their hands and feet so that they will not die. This is to be a lasting ordinance for Aaron and his descendants for the generations to come." [22] Then the LORD said to Moses, [23] "Take the following fine spices: 500 shekels of liquid myrrh, half as much (that is, 250 shekels) of fragrant cinnamon, 250 shekels of fragrant cane, [24] 500 shekels of cassia-- all according to the sanctuary shekel-- and a hin of olive oil. [25] Make these into a sacred anointing oil, a fragrant blend, the work of a perfumer. It will be the sacred anointing oil. [26] Then use it to anoint the Tent of Meeting, the ark of the Testimony, [27] the table and all its articles, the lampstand and its accessories, the altar of incense, [28] the altar of burnt offering and all its utensils, and the basin with its stand. [29] You shall consecrate them so they will be most holy, and whatever touches them will be holy. [30] "Anoint Aaron and his sons and consecrate them so they may serve me as priests. [31] Say to the Israelites, 'This is to be my sacred anointing oil for the generations to come. [32] Do not pour it on men's bodies and do not make any oil with the same formula. It is sacred, and you are to consider it sacred. [33] Whoever makes perfume like it and whoever puts it on anyone other than a priest must be cut off from his people.'" [34] Then the LORD said to Moses, "Take fragrant spices-- gum resin, onycha and galbanum-- and pure frankincense, all in equal amounts, [35] and make a fragrant blend of incense, the work of a perfumer. It is to be salted and pure and sacred. [36] Grind some of it to powder and place it in front of the Testimony in the Tent of Meeting, where I will meet with you. It shall be most holy to you. [37] Do not make any incense with this formula for yourselves; consider it holy to the LORD. [38] Whoever makes any like it to enjoy its fragrance must be cut off from his people." |
[1] Ngươi cũng hãy đóng một cái bàn thờ bằng cây si-tim, để xông hương.
[2] Mặt bàn sẽ vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước; bàn thờ sẽ có bốn sừng ló ra. [3] Ngươi hãy bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung quanh và các sừng; còn tứ vi chạy đường viền vàng. [4] Dưới đường viền đó, nơi hai bên, hãy làm hai cái khoen bằng vàng, để xỏ đòn dùng đặng khiêng. [5] Hãy chuốt đòn khiêng bằng cây si-tim, bọc vàng. [6] Ngươi sẽ để bàn thờ đó trước bức màn che hòm bảng chứng đối cùng nắp thi ân trên hòm, là nơi ta sẽ gặp ngươi. [7] Mỗi buổi sớm mai, khi A-rôn làm đèn, sẽ xông hương tại nơi đó. [8] Vào lúc chiều tối, khi A-rôn thắp đèn, cũng sẽ xông hương: ấy là một thứ hương phải xông trước mặt Ðức Giê-hô-va luôn luôn, trải qua các đời. [9] Trên bàn thờ nầy chớ xông hương lạ, hoặc dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay là lễ quán nào hết. [10] Nhưng trải qua các đời, mỗi năm một lần, A-rôn sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tôi, bôi trên sừng bàn thờ nầy đặng chuộc tội cho nó. Ấy sẽ là một việc rất thánh cho Ðức Giê-hô-va. [11] Ðức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: [12] Khi nào ngươi điểm số dân Y-sơ-ra-ên đặng kê sổ, mỗi tên phải nộp tiền đền mạng mình cho Ðức Giê-hô-va, hầu cho khỏi mắc tai nạn chi trong khi kê sổ. [13] Kẻ nào có tên trong sổ phải nộp nửa siếc-lơ, tùy siếc-lơ của nơi thánh, cận nặng hai mươi ghê-ra; vậy, nửa siếc-lơ, tức là của dâng cho Ðức Giê-hô-va. [14] Mọi người có tên vào sổ từ hai mươi tuổi sắp lên sẽ dâng của nầy cho Ðức Giê-hô-va. [15] Khi dâng của nầy cho Ðức Giê-hô-va đặng đền mạng mình, người giàu không nộp trội, người nghèo không nộp thiếu nửa siếc-lơ. [16] Vậy, ngươi thâu tiền đền mạng của dân Y-sơ-ra-ên, rồi dùng tiền đó vào việc hội mạc; ấy là một kỷ niệm của dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Ðức Giê-hô-va, đặng đền mạng mình. [17] Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se nữa rằng: [18] Ngươi hãy làm một cái thùng với chân thùng bằng đồng, đặng rửa mình ở trong, rồi để giữa khoảng của hội mạc và bàn thờ, và đổ nước vào. [19] A-rôn cùng các con trai người sẽ rửa tay và chân mình ở trong. [20] Khi họ vào hội mạc sẽ lấy nước rửa mình, hầu cho họ khỏi chết; và khi lại gần bàn thờ đặng phụng sự, tức là xông của lễ dùng lửa dâng cho Ðức Giê-hô-va, họ cũng phải giữ như vậy. [21] Thế thì, họ hãy rửa tay và chân, hầu cho khỏi chết. Ấy là một lệ đời đời cho A-rôn, cùng dòng dõi người trải qua các đời. [22] Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: [23] Hãy góp các hương liệu tốt nhất: một dược nước năm trăm siếc-lơ; hương nhục quế phân nửa số đó, tức là hai trăm rưỡi; hương xương bồ hai trăm rưỡi; [24] quế-bì năm trăm, đều theo siếc-lơ nơi thánh, và một hin dầu ô-li-ve. [25] Ngươi hãy lấy các hương liệu đó theo phép hòa hương, chế ra một thứ dầu thơm dùng làm dầu xức thánh. [26] Ðoạn, lấy xức cho hội mạc cùng hòm bảng chứng, [27] bàn thờ cùng các đồ phụ tùng, chân đèn cùng các đồ phụ tùng, bàn thờ xông hương, [28] bàn thờ của lễ thiêu cùng các đồ phụ tùng, cái thùng và chân thùng. [29] Ấy vậy, ngươi sẽ biệt các vật nầy riêng ra thánh, hầu cho làm rất thánh, hễ món chi đụng đến, đều sẽ được nên thánh. [30] Ngươi cũng hãy xức dầu cho A-rôn cùng các con trai người, biệt họ riêng ra thánh, để làm chức tế lễ trước mặt ta. [31] Lại hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Về phần ta, dầu nầy sẽ là dầu xức thánh trải qua mọi đời các ngươi. [32] Chớ nên đổ trên xác thịt loài người, và cũng đừng làm dầu nào khác theo phép hòa hương đó; dầu nầy là thánh, cũng sẽ thánh cho các ngươi. [33] Hễ ai chế một thứ hòa hương giống như vậy, và đem rưới trên mình người ngoại bang, sẽ bị truất khỏi vòng dân sự. [34] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se nữa rằng: Hãy lấy các hương liệu, tức tô hiệp hương, loa yểm hương, phong chi hương, cùng thanh nhũ hương, mỗi thứ bằng nhau, [35] theo phép hòa hương, chế ra một thứ hương, mặn, trong và thánh. [36] Hãy nghiền nó ra bột, rồi để trước hòm bảng chứng trong hội mạc, tức là nơi ta sẽ gặp ngươi: về phần các ngươi, hương nầy sẽ là một vật rất thánh. [37] Còn thứ hương mà ngươi sẽ chế, chớ chế giống như phép hòa hương nầy; ấy là một vật ngươi nên biệt riêng ra thánh cho Ðức Giê-hô-va. [38] Hễ kẻ nào làm giống y như vậy đặng ngửi mùi, sẽ bị truất khỏi vòng dân sự. |
Chapter 31
Chương 31
[1] Then the LORD said to Moses,
[2] "See, I have chosen Bezalel son of Uri, the son of Hur, of the tribe of Judah, [3] and I have filled him with the Spirit of God, with skill, ability and knowledge in all kinds of crafts-- [4] to make artistic designs for work in gold, silver and bronze, [5] to cut and set stones, to work in wood, and to engage in all kinds of craftsmanship. [6] Moreover, I have appointed Oholiab son of Ahisamach, of the tribe of Dan, to help him. Also I have given skill to all the craftsmen to make everything I have commanded you: [7] the Tent of Meeting, the ark of the Testimony with the atonement cover on it, and all the other furnishings of the tent-- [8] the table and its articles, the pure gold lampstand and all its accessories, the altar of incense, [9] the altar of burnt offering and all its utensils, the basin with its stand-- [10] and also the woven garments, both the sacred garments for Aaron the priest and the garments for his sons when they serve as priests, [11] and the anointing oil and fragrant incense for the Holy Place. They are to make them just as I commanded you." [12] Then the LORD said to Moses, [13] "Say to the Israelites, 'You must observe my Sabbaths. This will be a sign between me and you for the generations to come, so you may know that I am the LORD, who makes you holy. [14] "'Observe the Sabbath, because it is holy to you. Anyone who desecrates it must be put to death; whoever does any work on that day must be cut off from his people. [15] For six days, work is to be done, but the seventh day is a Sabbath of rest, holy to the LORD. Whoever does any work on the Sabbath day must be put to death. [16] The Israelites are to observe the Sabbath, celebrating it for the generations to come as a lasting covenant. [17] It will be a sign between me and the Israelites forever, for in six days the LORD made the heavens and the earth, and on the seventh day he abstained from work and rested.'" [18] When the LORD finished speaking to Moses on Mount Sinai, he gave him the two tablets of the Testimony, the tablets of stone inscribed by the finger of God. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se nữa rằng:
[2] Nầy, ta đã kêu tên Bết-sa-lê-ên, con trai của U-ri, cháu của Hu-rơ, trong chi phái Giu-đa. [3] Ta đã làm cho người đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời, sự khôn ngoan, sự thông sáng, và sự hiểu biết để làm mọi thứ nghề thợ, [4] đặng bày ra và chế tạo đồ vàng, bạc và đồng, [5] đặng khác và khảm ngọc, đẽo gỗ và làm được mọi thứ nghề thợ. [6] Ðây, ta lại cho một người phụ việc, tên là Ô-hô-li-áp, con trai của A-hi-sa-mạc, trong chi phái Ðan. Ta cũng đã ban sự thông minh cho mọi người tài năng, hầu cho họ làm các việc ta đã phán dặn ngươi, [7] là hội mạc, hòm bảng chứng, nắp thi ân ở trên hòm, cùng đồ dùng trong hội mạc; [8] bàn thờ cùng đồ phụ tùng, chân đèn bằng vàng ròng và đồ phụ tùng, bàn thờ xông hương, [9] bàn thờ dâng của lễ thiêu cùng đồ phụ tùng, cái thùng và chân thùng; [10] áo lễ, áo thánh cho A-rôn thầy tế lễ cả, và bộ áo cho các con trai người, đặng làm chức tế lễ; [11] dầu xức, và hương thơm của nơi thánh. Các người đó phải làm hết thảy theo lời ta đã phán dặn ngươi. [12] Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: [13] Phần ngươi, hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nhất là các ngươi hãy giữ ngày sa-bát ta, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời, để thiên hạ biết rằng ta, là Ðức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh. [14] Vậy, hãy giữ ngày sa-bát, vì là một ngày thánh cho các ngươi. Kẻ nào phạm đến ngày đó, phải bị xử tử; kẻ nào làm một việc chi trong ngày đó, cũng sẽ bị truất khỏi vòng dân sự. [15] Người ta sẽ làm công việc trong sáu ngày, nhưng qua ngày thứ bảy là ngày sa-bát, tức là ngày nghỉ, biệt riêng ra thánh cho Ðức Giê-hô-va. Trong ngày sa-bát hễ ai làm một việc chi sẽ bị xử tử. [16] Ấy vậy, dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ ngày sa-bát trải các đời của họ, như một giao ước đời đời. [17] Ấy là một dấu đời đời cho ta cùng dân Y-sơ-ra-ên, vì Ðức Giê-hô-va đã dựng nên trời và đất trong sáu ngày, qua ngày thứ bảy Ngài nghỉ và lấy sức lại. [18] Khi Ðức Giê-hô-va đã phán xong cùng Môi-se tại núi Si-na-i, bèn cho người hai bảng chứng bằng đá, với ngón tay Ðức Chúa Trời viết ra. |
Chapter 32
Chương 32
[1] When the people saw that Moses was so long in coming down from the mountain, they gathered around Aaron and said, "Come, make us gods who will go before us. As for this fellow Moses who brought us up out of Egypt, we don't know what has happened to him."
[2] Aaron answered them, "Take off the gold earrings that your wives, your sons and your daughters are wearing, and bring them to me." [3] So all the people took off their earrings and brought them to Aaron. [4] He took what they handed him and made it into an idol cast in the shape of a calf, fashioning it with a tool. Then they said, "These are your gods, O Israel, who brought you up out of Egypt." [5] When Aaron saw this, he built an altar in front of the calf and announced, "Tomorrow there will be a festival to the LORD." [6] So the next day the people rose early and sacrificed burnt offerings and presented fellowship offerings. Afterward they sat down to eat and drink and got up to indulge in revelry. [7] Then the LORD said to Moses, "Go down, because your people, whom you brought up out of Egypt, have become corrupt. [8] They have been quick to turn away from what I commanded them and have made themselves an idol cast in the shape of a calf. They have bowed down to it and sacrificed to it and have said, 'These are your gods, O Israel, who brought you up out of Egypt.' [9] "I have seen these people," the LORD said to Moses, "and they are a stiff-necked people. [10] Now leave me alone so that my anger may burn against them and that I may destroy them. Then I will make you into a great nation." [11] But Moses sought the favor of the LORD his God. "O LORD," he said, "why should your anger burn against your people, whom you brought out of Egypt with great power and a mighty hand? [12] Why should the Egyptians say, 'It was with evil intent that he brought them out, to kill them in the mountains and to wipe them off the face of the earth'? Turn from your fierce anger; relent and do not bring disaster on your people. [13] Remember your servants Abraham, Isaac and Israel, to whom you swore by your own self: 'I will make your descendants as numerous as the stars in the sky and I will give your descendants all this land I promised them, and it will be their inheritance forever.'" [14] Then the LORD relented and did not bring on his people the disaster he had threatened. [15] Moses turned and went down the mountain with the two tablets of the Testimony in his hands. They were inscribed on both sides, front and back. [16] The tablets were the work of God; the writing was the writing of God, engraved on the tablets. [17] When Joshua heard the noise of the people shouting, he said to Moses, "There is the sound of war in the camp." [18] Moses replied: "It is not the sound of victory, it is not the sound of defeat; it is the sound of singing that I hear." [19] When Moses approached the camp and saw the calf and the dancing, his anger burned and he threw the tablets out of his hands, breaking them to pieces at the foot of the mountain. [20] And he took the calf they had made and burned it in the fire; then he ground it to powder, scattered it on the water and made the Israelites drink it. [21] He said to Aaron, "What did these people do to you, that you led them into such great sin?" [22] "Do not be angry, my lord," Aaron answered. "You know how prone these people are to evil. [23] They said to me, 'Make us gods who will go before us. As for this fellow Moses who brought us up out of Egypt, we don't know what has happened to him.' [24] So I told them, 'Whoever has any gold jewelry, take it off.' Then they gave me the gold, and I threw it into the fire, and out came this calf!" [25] Moses saw that the people were running wild and that Aaron had let them get out of control and so become a laughingstock to their enemies. [26] So he stood at the entrance to the camp and said, "Whoever is for the LORD, come to me." And all the Levites rallied to him. [27] Then he said to them, "This is what the LORD, the God of Israel, says: 'Each man strap a sword to his side. Go back and forth through the camp from one end to the other, each killing his brother and friend and neighbor.'" [28] The Levites did as Moses commanded, and that day about three thousand of the people died. [29] Then Moses said, "You have been set apart to the LORD today, for you were against your own sons and brothers, and he has blessed you this day." [30] The next day Moses said to the people, "You have committed a great sin. But now I will go up to the LORD; perhaps I can make atonement for your sin." [31] So Moses went back to the LORD and said, "Oh, what a great sin these people have committed! They have made themselves gods of gold. [32] But now, please forgive their sin-- but if not, then blot me out of the book you have written." [33] The LORD replied to Moses, "Whoever has sinned against me I will blot out of my book. [34] Now go, lead the people to the place I spoke of, and my angel will go before you. However, when the time comes for me to punish, I will punish them for their sin." [35] And the LORD struck the people with a plague because of what they did with the calf Aaron had made. |
[1] Dân sự thấy Môi-se ở trên núi chậm xuống, bèn nhóm lại chung quanh A-rôn mà nói rằng: Nào! hãy làm các thần để đi trước chúng tôi đi, vì về phần Môi-se nầy, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chúng tôi chẳng biết điều chi đã xảy đến cho người rồi.
[2] A-rôn đáp rằng: Hãy một những vòng vàng đeo nơi tai vợ, con trai và con gái các ngươi đi, rồi đem lại cho ta. [3] Hết thảy đều lột vòng vàng nơi tai mình mà đem lại cho A-rôn; [4] người nhận lấy nơi tay họ, và dùng đục làm thành một bò con đúc. Dân chúng nói rằng: Hỡi Y-sơ-ra-ên! nầy là các thần của ngươi đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [5] A-rôn thấy vậy, bèn lập một bàn thờ trước mặt tượng bò đó; đoạn, người la lên rằng: Sáng mai sẽ có lễ tôn trọng Ðức Giê-hô-va! [6] Sáng mai dân chúng bèn thức dậy sớm, dâng các của lễ thiêu và lễ thù ân; ngồi mà ăn uống, đoạn đứng dậy mà vui chơi. [7] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy xuống đi, vì dân mà ngươi đưa ra khỏi xứ Ê-díp-tô đã bại hoại rồi, [8] vội bỏ đạo ta truyền dạy, đúc một con bò tơ, mọp trước tượng bò đó và dâng của lễ cho nó mà nói rằng: Hỡi Y-sơ-ra-ên! đây là các thần đã dẫn ngươi lên khỏi xứ Ê-díp-tô! [9] Ðức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: Ta đã xem thấy dân nầy, kìa là một dân cứng cổ. [10] Vả, bây giờ hãy để mặc ta làm, hầu cho cơn thạnh nộ ta nổi lên cùng chúng nó, diệt chúng nó đi; nhưng ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. [11] Môi-se bèn nài xin Giê-hô-va Ðức Chúa Trời người rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va, sao nổi thạnh nộ cùng dân Ngài? là dân mà Ngài đã dùng quyền lớn lao mạnh mẽ đưa ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [12] Sao để cho người Ê-díp-tô nói rằng: Ngài đưa chúng nó ra khỏi xứ đặng làm hại cho, giết đi tại trong núi, cùng diệt chúng nó khỏi mặt đất? Cầu xin Chúa hãy nguôi cơn giận và bỏ qua điều tai họa mà Ngài muốn giáng cho dân Ngài. [13] Xin Chúa hãy nhớ lại Áp-ra-ham, Y-sác, Y-sơ-ra-ên, là các tôi tớ Ngài, mà Ngài có chỉ mình thề cùng họ rằng: Ta sẽ thêm dòng dõi các ngươi lên nhiều như sao trên trời, ta sẽ ban cho dòng dõi đó cả xứ mà ta chỉ phán, và họ sẽ được xứ ấy làm cơ nghiệp đời đời. [14] Ðức Giê-hô-va bèn bỏ qua điều tai họa mà Ngài nói rằng sẽ giáng cho dân mình. [15] Ðoạn, Môi-se ở trên núi trở xuống, tay cầm hai bảng chứng; hai bảng chứng có viết hai bên, mặt nầy và mặt kia. [16] Hai bảng đó là việc của Ðức Chúa Trời làm ra; chữ cũng là chữ của Ðức Chúa Trời khắc trên bảng. [17] Vả, Giô-suê nghe dân chúng la lên, bèn nói cùng Môi-se rằng: Trong trại quân có tiếng chiến đấu. [18] Môi-se đáp rằng: Chẳng phải tiếng kêu về thắng trận, cũng chẳng phải tiếng kêu về thua trận; nhưng ta nghe tiếng kẻ hát. [19] Khi đến gần trại quân, Môi-se thấy bò con và sự nhảy múa, bèn nổi giận, liệng hai bảng chứng khỏi tay mịnh, bể ra nơi chân núi; [20] đoạn lấy bò con của chúng đã đúc đem đốt trong lửa, rồi nghiền cho đến thành ra bụi, rải trên mặt nước, và cho dân Y-sơ-ra-ên uống. [21] Môi-se bèn nói cùng A-rôn rằng: Dân nầy làm chi anh, mà anh xui cho chúng phạm tội nặng dường ấy? [22] A-rôn đáp rằng: Xin chúa tôi đừng nổi giận, chúa biết rằng dân nầy chuyên làm điều ác! [23] Họ có nói cùng tôi rằng: Hãy làm các thần đi trước chúng tôi; vì về phần Môi-se nầy, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chúng tôi chẳng biết có điều chi xảy đến cho người rồi. [24] Tôi bèn nói cùng chúng rằng: Ai có vàng hãy lột ra! Họ bèn đưa cho tôi, tôi bỏ vào lửa, và bởi đó thành ra bò con nầy. [25] Vả, Môi-se thấy dân sự buông lung, vì A-rôn để họ buông lung, đến đỗi bị sỉ nhục trong vòng các thù nghịch, [26] thì người đứng nơi cửa trại quân mà nói rằng: Ai thuộc về Ðức Giê-hô-va, hãy đến cùng ta đây! Hết thảy người Lê-vi đều nhóm lại gần bên người. [27] Người truyền cho họ rằng: Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, có phán như vầy: Mỗi người trong các ngươi hãy đeo gươm bên mình, đi qua đi lại trong trại quân, từ cửa nầy đến cửa kia, và mỗi người hãy giết anh em, bạn hữu, và kẻ lân cận mình. [28] Dân Lê-vi bèn làm y như lời Môi-se; trong ngày đó có chừng ba ngàn người bị chết. [29] Vả, Môi-se đã truyền rằng: Ngày nay mỗi người trong vòng các ngươi hãy dâng tay mình cho Ðức Giê-hô-va, chẳng sá chi đến con trai hay là anh em mình, hầu cho các ngươi được ơn phước vậy. [30] Ngày mai, Môi-se nói cùng dân sự rằng: Các ngươi đã phạm một tội rất trọng; song bây giờ ta lên đến Ðức Giê-hô-va, có lẽ ta sẽ được chuộc tội các ngươi chăng. [31] Vậy, Môi-se trở lên đến Ðức Giê-hô-va mà thưa rằng: Ôi! dân sự nầy có phạm một tội trọng, làm cho mình các thần bằng vàng; [32] nhưng bây giờ xin Chúa tha tội cho họ! Bằng không, hãy xóa tên tôi khỏi sách Ngài đã chép đi. [33] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Kẻ nào phạm tội cùng ta, ta sẽ xóa nó khỏi sách ta. [34] Bây giờ, hãy đi, dẫn dân sự đến nơi ta đã chỉ phán. Nầy thiên sứ ta sẽ đi trước ngươi; nhưng ngày nào ta hình phạt thì sẽ phạt tội chúng nó. [35] Ðức Giê-hô-va hành phạt dân sự là vậy, vì dân sự là gốc phạm về tượng bò vàng mà A-rôn đã làm ra. |
Chapter 33
Chương 33
[1] Then the LORD said to Moses, "Leave this place, you and the people you brought up out of Egypt, and go up to the land I promised on oath to Abraham, Isaac and Jacob, saying, 'I will give it to your descendants.'
[2] I will send an angel before you and drive out the Canaanites, Amorites, Hittites, Perizzites, Hivites and Jebusites. [3] Go up to the land flowing with milk and honey. But I will not go with you, because you are a stiff-necked people and I might destroy you on the way." [4] When the people heard these distressing words, they began to mourn and no one put on any ornaments. [5] For the LORD had said to Moses, "Tell the Israelites, 'You are a stiff-necked people. If I were to go with you even for a moment, I might destroy you. Now take off your ornaments and I will decide what to do with you.'" [6] So the Israelites stripped off their ornaments at Mount Horeb. [7] Now Moses used to take a tent and pitch it outside the camp some distance away, calling it the "tent of meeting." Anyone inquiring of the LORD would go to the tent of meeting outside the camp. [8] And whenever Moses went out to the tent, all the people rose and stood at the entrances to their tents, watching Moses until he entered the tent. [9] As Moses went into the tent, the pillar of cloud would come down and stay at the entrance, while the LORD spoke with Moses. [10] Whenever the people saw the pillar of cloud standing at the entrance to the tent, they all stood and worshiped, each at the entrance to his tent. [11] The LORD would speak to Moses face to face, as a man speaks with his friend. Then Moses would return to the camp, but his young aide Joshua son of Nun did not leave the tent. [12] Moses said to the LORD, "You have been telling me, 'Lead these people,' but you have not let me know whom you will send with me. You have said, 'I know you by name and you have found favor with me.' [13] If you are pleased with me, teach me your ways so I may know you and continue to find favor with you. Remember that this nation is your people." [14] The LORD replied, "My Presence will go with you, and I will give you rest." [15] Then Moses said to him, "If your Presence does not go with us, do not send us up from here. [16] How will anyone know that you are pleased with me and with your people unless you go with us? What else will distinguish me and your people from all the other people on the face of the earth?" [17] And the LORD said to Moses, "I will do the very thing you have asked, because I am pleased with you and I know you by name." [18] Then Moses said, "Now show me your glory." [19] And the LORD said, "I will cause all my goodness to pass in front of you, and I will proclaim my name, the LORD, in your presence. I will have mercy on whom I will have mercy, and I will have compassion on whom I will have compassion. [20] But," he said, "you cannot see my face, for no one may see me and live." [21] Then the LORD said, "There is a place near me where you may stand on a rock. [22] When my glory passes by, I will put you in a cleft in the rock and cover you with my hand until I have passed by. [23] Then I will remove my hand and you will see my back; but my face must not be seen." |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Nầy, ngươi cùng dân sự mà ngươi đã dẫn ra khỏi xứ Ê-díp-tô hãy từ đây đi lên xứ ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, rằng: Ta sẽ ban xứ đó cho dòng dõi ngươi.
[2] Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi, và sẽ đuổi dân Ca-na-an, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, [3] đặng đưa các ngươi vào xứ đượm sữa và mật; nhưng ta không cùng lên với ngươi đâu, vì ngươi là dân cứng cổ, e ta diệt ngươi dọc đường chăng. [4] Khi dân sự nghe lời hăm nầy, bèn đều để tang, không ai đeo đồ trang sức hết. [5] Vì Ðức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se rằng: Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên: Các ngươi là dân cứng cổ, nếu ta cùng lên với các ngươi chỉ trong một lúc, thì ta sẽ diệt các ngươi! Vậy, bây giờ, hãy cất đồ trang sức trong mình ngươi đi, đặng ta biết liệu đãi ngươi cách nào. [6] Thế thì, từ núi Hô-rếp, dân Y-sơ-ra-ên đã lột các đồ trang sức mình. [7] Môi-se lấy Trại đem dựng xa ra ngoài trại quân, gọi là hội mạc, phàm ai muốn cầu khẩn Ðức Giê-hô-va, thì ra đến hội mạc ở ngoài trại quân. [8] Vừa khi Môi-se ra đến Trại, thì cả dân sự chổi dậy, mỗi người đứng nơi cửa trại mình, ngó theo Môi-se cho đến khi nào người vào trong Trại rồi. [9] Vừa khi người vào đó, thì trụ mây giáng xuống dừng tại cửa Trại, và Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se. [10] Cả dân sự thấy trụ mây dừng tại cửa Trại, bèn đứng dậy, rồi mỗi người đều sấp mình xuống nơi cửa trại mình. [11] Ðức Giê-hô-va đối diện phán cùng Môi-se, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình. Ðoạn, Môi-se trở về trại quân, còn kẻ hầu trẻ của người, tên là Giô-suê, con trai của Nun, không ra khỏi Trại. [12] Môi-se thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Nầy, Chúa phán cùng tôi rằng: Hãy đem dân sự nầy lên! Song Chúa chẳng cho tôi biết Chúa sai ai đi cùng tôi. Vả, Chúa có phán rằng: Ta biết ngươi vì danh ngươi, và ngươi được ơn trước mặt ta. [13] Vậy bây giờ, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin cho tôi biết đường của Chúa, để cho tôi biết Chúa và được ơn trước mặt Ngài. Xin cũng hãy nghĩ rằng dân nầy là dân của Ngài! [14] Ðức Giê-hô-va đáp rằng: Chính mình ta sẽ đi cùng ngươi, và ta sẽ cho ngươi an nghỉ. [15] Môi-se thưa rằng: Nếu chính mình Ngài chẳng đi, xin đừng đem chúng tôi lên khỏi đây. [16] Lấy cớ chi mà người ta sẽ biết rằng tôi cùng dân sự Ngài được ơn trước mặt Ngài? Có phải khi nào Ngài cùng đi với chúng tôi chăng? Thế thì, tôi cùng dân sự Ngài sẽ được phân biệt với muôn dân trên mặt đất. [17] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Ta sẽ làm điều ngươi cầu xin ta, vì ngươi được ơn trước mặt ta, và ta biết ngươi bởi danh ngươi vậy. [18] Môi-se thưa rằng: Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài! [19] Ðức Giê-hô-va phán ràng: Ta sẽ làm cho các sự nhân từ ta phát ra trước mặt ngươi; ta hô danh Giê-hô-va trước mặt ngươi; làm ơn cho ai ta muốn làm ơn, và thương xót ai ta muốn thương xót. [20] Ngài lại phán rằng: Ngươi sẽ chẳng thấy được mặt ta, vì không ai thấy mặt ta mà còn sống. [21] Ðức Giê-hô-va lại phán: Ðây có một chỗ gần ta, ngươi hãy đứng trên hòn đá; [22] khi sự vinh hiển ta đi ngang qua, ta sẽ để ngươi trong bộng đá, lấy tay ta che ngươi, cho đến chừng nào ta đi qua rồi. [23] Ta sẽ rút tay lại, và ngươi thấy phía sau ta; nhưng thấy mặt ta chẳng được. |
Chapter 34
Chương 34
[1] The LORD said to Moses, "Chisel out two stone tablets like the first ones, and I will write on them the words that were on the first tablets, which you broke.
[2] Be ready in the morning, and then come up on Mount Sinai. Present yourself to me there on top of the mountain. [3] No one is to come with you or be seen anywhere on the mountain; not even the flocks and herds may graze in front of the mountain." [4] So Moses chiseled out two stone tablets like the first ones and went up Mount Sinai early in the morning, as the LORD had commanded him; and he carried the two stone tablets in his hands. [5] Then the LORD came down in the cloud and stood there with him and proclaimed his name, the LORD. [6] And he passed in front of Moses, proclaiming, "The LORD, the LORD, the compassionate and gracious God, slow to anger, abounding in love and faithfulness, [7] maintaining love to thousands, and forgiving wickedness, rebellion and sin. Yet he does not leave the guilty unpunished; he punishes the children and their children for the sin of the fathers to the third and fourth generation." [8] Moses bowed to the ground at once and worshiped. [9] "O Lord, if I have found favor in your eyes," he said, "then let the Lord go with us. Although this is a stiff-necked people, forgive our wickedness and our sin, and take us as your inheritance." [10] Then the LORD said: "I am making a covenant with you. Before all your people I will do wonders never before done in any nation in all the world. The people you live among will see how awesome is the work that I, the LORD, will do for you. [11] Obey what I command you today. I will drive out before you the Amorites, Canaanites, Hittites, Perizzites, Hivites and Jebusites. [12] Be careful not to make a treaty with those who live in the land where you are going, or they will be a snare among you. [13] Break down their altars, smash their sacred stones and cut down their Asherah poles. [14] Do not worship any other god, for the LORD, whose name is Jealous, is a jealous God. [15] "Be careful not to make a treaty with those who live in the land; for when they prostitute themselves to their gods and sacrifice to them, they will invite you and you will eat their sacrifices. [16] And when you choose some of their daughters as wives for your sons and those daughters prostitute themselves to their gods, they will lead your sons to do the same. [17] "Do not make cast idols. [18] "Celebrate the Feast of Unleavened Bread. For seven days eat bread made without yeast, as I commanded you. Do this at the appointed time in the month of Abib, for in that month you came out of Egypt. [19] "The first offspring of every womb belongs to me, including all the firstborn males of your livestock, whether from herd or flock. [20] Redeem the firstborn donkey with a lamb, but if you do not redeem it, break its neck. Redeem all your firstborn sons. "No one is to appear before me empty-handed. [21] "Six days you shall labor, but on the seventh day you shall rest; even during the plowing season and harvest you must rest. [22] "Celebrate the Feast of Weeks with the firstfruits of the wheat harvest, and the Feast of Ingathering at the turn of the year. [23] Three times a year all your men are to appear before the Sovereign LORD, the God of Israel. [24] I will drive out nations before you and enlarge your territory, and no one will covet your land when you go up three times each year to appear before the LORD your God. [25] "Do not offer the blood of a sacrifice to me along with anything containing yeast, and do not let any of the sacrifice from the Passover Feast remain until morning. [26] "Bring the best of the firstfruits of your soil to the house of the LORD your God. "Do not cook a young goat in its mother's milk." [27] Then the LORD said to Moses, "Write down these words, for in accordance with these words I have made a covenant with you and with Israel." [28] Moses was there with the LORD forty days and forty nights without eating bread or drinking water. And he wrote on the tablets the words of the covenant-- the Ten Commandments. [29] When Moses came down from Mount Sinai with the two tablets of the Testimony in his hands, he was not aware that his face was radiant because he had spoken with the LORD. [30] When Aaron and all the Israelites saw Moses, his face was radiant, and they were afraid to come near him. [31] But Moses called to them; so Aaron and all the leaders of the community came back to him, and he spoke to them. [32] Afterward all the Israelites came near him, and he gave them all the commands the LORD had given him on Mount Sinai. [33] When Moses finished speaking to them, he put a veil over his face. [34] But whenever he entered the LORD's presence to speak with him, he removed the veil until he came out. And when he came out and told the Israelites what he had been commanded, [35] they saw that his face was radiant. Then Moses would put the veil back over his face until he went in to speak with the LORD. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy đục hai bảng đá như hai bảng trước; rồi ta sẽ viết trên hai bảng nầy các lời đã ở nơi hai bảng kia, mà ngươi đã làm bể.
[2] Ngày mai, hãy chực cho sẵn, vừa sáng lên trên đỉnh núi Si-na-i, đứng trước mặt ta tại đó. [3] Không ai nên lên theo cùng ngươi hết, khắp núi không nên thấy có người, và chiên, bò cũng chẳng nên ăn cỏ nơi núi nầy nữa. [4] Môi-se bèn đục hai bảng đá, y như hai bảng trước; dậy sớm, cầm theo tay hai bảng đó lên trên núi Si-na-i, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn. [5] Ðức Giê-hô-va ngự xuống trong đám mây, đứng gần bên Môi-se và hô danh Giê-hô-va. [6] Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Ðức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực, [7] ban ơn đến ngàn đời, xá điều gian ác, tội trọng, và tội lỗi; nhưng chẳng kể kẻ có tội là vô tội, và nhơn tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời. [8] Môi-se lật đật cúi đầu xuống đất và thờ lạy, mà thưa rằng: [9] Lạy Chúa! Nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin hãy đi giữa chúng tôi, vì dân nầy là một dân cứng cổ. Xin hãy tha sự gian ác cùng tội lỗi, và nhận chúng tôi làm cơ nghiệp Chúa. [10] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, ta lập một giao ước. Trước mặt các dân sự của ngươi, ta sẽ làm các phép lạ chưa hề có làm trên cả mặt đất, hay là nơi dân nào; và toàn dân sự mà trong đó có ngươi, sẽ xem thấy việc Ðức Giê-hô, vì điều ta sẽ làm cùng ngươi là một điều đáng kinh khiếp. [11] Hãy cẩn thận về điều ta truyền cho ngươi hôm nay. Nầy, ta sẽ đuổi khỏi trước mặt ngươi dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. [12] Hãy cẩn thận đừng lập giao ước cùng dân của xứ mà ngươi sẽ vào, e chúng nó sẽ thành cái bẫy giữa ngươi chăng. [13] Nhưng các ngươi hãy phá hủy bàn thờ, đập bể pho tượng và đánh hạ các thần chúng nó. [14] Vì ngươi đừng sấp mình xuống trước mặt Chúa nào khác, bởi Ðức Giê-hô-va tự xưng là Ðức Chúa Trời kỵ tà; Ngài thật là một Ðức Chúa Trời kỵ tà vậy. [15] Hãy cẩn thận đừng lập giao ước cùng dân của xứ đó, e khi chúng nó hành dâm cùng các tà thần chúng nó và tế các tà thần của chúng nó, có kẻ mời, rồi ngươi ăn của chúng họ chăng. [16] Lại đừng cưới con gái chúng nó cho con trai ngươi, e khi con gái chúng nó hành dâm với các tà thần chúng nó, quyến dụ con trai ngươi cũng hành dâm cùng các tà thần của chúng nó nữa chăng. [17] Ngươi chớ đúc thần tượng. [18] Ngươi hãy giữ lễ bánh không men. Nhằm kỳ tháng lúa trỗ, hãy ăn bánh không men trong bảy ngày, như ta đã truyền dặn ngươi; vì nhằm tháng đó ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. [19] Các con trưởng nam đều thuộc về ta; cùng các con đực đầu lòng của bầy súc vật ngươi, hoặc bò hoặc chiên cũng vậy. [20] Nhưng ngươi sẽ bắt một chiên con hay là dê con mà chuộc một con lừa đầu lòng. Nếu chẳng chuộc nó, ngươi hãy bẻ cổ nó. Ngươi sẽ chuộc các con trưởng nam mình; và chớ ai đi tay không đến chầu trước mặt ta. [21] Trong sáu ngày ngươi hãy làm công việc, nhưng qua ngày thứ bảy hãy nghỉ, dẫu mùa cày hay mùa gặt ngươi cũng phải nghỉ vậy. [22] Ðầu mùa gặt lúa mì, ngươi hãy giữ lễ của các tuần lễ; và cuối năm giữ lễ mùa màng. [23] Thường năm ba lần, trong vòng các ngươi, mỗi người nam sẽ ra mắt Chúa Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. [24] Vì ta sẽ đuổi các dân khỏi trước mặt ngươi, ta sẽ mở rộng bờ cõi ngươi; và trong khi ngươi lên ra mắt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, mỗi năm ba lần, thì sẽ chẳng ai tham muốn xứ ngươi hết. [25] Ngươi chớ dâng huyết của con sinh tế ta cùng bánh pha men; thịt của con sinh về lễ Vượt-qua chớ nên giữ đến sáng mai. [26] Ngươi sẽ đem dâng hoa quả đầu mùa của đất sanh sản vào đến Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời ngươi. Ngươi chớ nấu thịt dê con trong sữa mẹ nó. [27] Ðức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: Hãy chép các lời nầy; vì theo các lời nầy mà ta lập giao ước cùng ngươi và cùng Y-sơ-ra-ên. [28] Môi-se ở đó cùng Ðức Giê-hô-va trong bốn mươi ngày và bốn mười đêm, không ăn bánh, cũng không uống nước; Ðức Giê-hô-va chép trên hai bảng đá các lời giao ước, tức là mười điều răn. [29] Khi Môi-se tay cầm hai bảng chứng đi xuống núi Si-na-i, chẳng biết rằng da mặt mình sáng rực bởi vì mình hầu chuyện Ðức Giê-hô-va. [30] Nhưng A-rôn cùng cả dân Y-sơ-ra-ên nhìn Môi-se thấy mặt người sáng rực, sợ không dám lại gần. [31] Môi-se bèn gọi họ, A-rôn cùng các hội trưởng đến gần; rồi nói chuyện cùng họ. [32] Kế sau, cả dân Y-sơ-ra-ên đến gần, người truyền dặn các điều của Ðức Giê-hô-va đã phán dặn mình nơi núi Si-na-i. [33] Môi-se thôi nói chuyện cùng họ, liền lấy lúp che mặt mình lại. [34] Khi Môi-se vào trước mặt Ðức Giê-hô-va đặng hầu chuyện Ngài, thì dở lúp lên cho đến chừng nào lui ra; đoạn ra nói lại cùng dân Y-sơ-ra-ên mọi lời Ngài đã phán dặn mình. [35] Dân Y-sơ-ra-ên nhìn mặt Môi-se thấy da mặt người sáng rực, thì Môi-se lấy lúp che mặt mình cho đến khi nào vào hầu chuyện Ðức Giê-hô-va. |
Chapter 35
Chương 35
[1] Moses assembled the whole Israelite community and said to them, "These are the things the LORD has commanded you to do:
[2] For six days, work is to be done, but the seventh day shall be your holy day, a Sabbath of rest to the LORD. Whoever does any work on it must be put to death. [3] Do not light a fire in any of your dwellings on the Sabbath day." [4] Moses said to the whole Israelite community, "This is what the LORD has commanded: [5] From what you have, take an offering for the LORD. Everyone who is willing is to bring to the LORD an offering of gold, silver and bronze; [6] blue, purple and scarlet yarn and fine linen; goat hair; [7] ram skins dyed red and hides of sea cows; acacia wood; [8] olive oil for the light; spices for the anointing oil and for the fragrant incense; [9] and onyx stones and other gems to be mounted on the ephod and breastpiece. [10] "All who are skilled among you are to come and make everything the LORD has commanded: [11] the tabernacle with its tent and its covering, clasps, frames, crossbars, posts and bases; [12] the ark with its poles and the atonement cover and the curtain that shields it; [13] the table with its poles and all its articles and the bread of the Presence; [14] the lampstand that is for light with its accessories, lamps and oil for the light; [15] the altar of incense with its poles, the anointing oil and the fragrant incense; the curtain for the doorway at the entrance to the tabernacle; [16] the altar of burnt offering with its bronze grating, its poles and all its utensils; the bronze basin with its stand; [17] the curtains of the courtyard with its posts and bases, and the curtain for the entrance to the courtyard; [18] the tent pegs for the tabernacle and for the courtyard, and their ropes; [19] the woven garments worn for ministering in the sanctuary-- both the sacred garments for Aaron the priest and the garments for his sons when they serve as priests." [20] Then the whole Israelite community withdrew from Moses' presence, [21] and everyone who was willing and whose heart moved him came and brought an offering to the LORD for the work on the Tent of Meeting, for all its service, and for the sacred garments. [22] All who were willing, men and women alike, came and brought gold jewelry of all kinds: brooches, earrings, rings and ornaments. They all presented their gold as a wave offering to the LORD. [23] Everyone who had blue, purple or scarlet yarn or fine linen, or goat hair, ram skins dyed red or hides of sea cows brought them. [24] Those presenting an offering of silver or bronze brought it as an offering to the LORD, and everyone who had acacia wood for any part of the work brought it. [25] Every skilled woman spun with her hands and brought what she had spun-- blue, purple or scarlet yarn or fine linen. [26] And all the women who were willing and had the skill spun the goat hair. [27] The leaders brought onyx stones and other gems to be mounted on the ephod and breastpiece. [28] They also brought spices and olive oil for the light and for the anointing oil and for the fragrant incense. [29] All the Israelite men and women who were willing brought to the LORD freewill offerings for all the work the LORD through Moses had commanded them to do. [30] Then Moses said to the Israelites, "See, the LORD has chosen Bezalel son of Uri, the son of Hur, of the tribe of Judah, [31] and he has filled him with the Spirit of God, with skill, ability and knowledge in all kinds of crafts-- [32] to make artistic designs for work in gold, silver and bronze, [33] to cut and set stones, to work in wood and to engage in all kinds of artistic craftsmanship. [34] And he has given both him and Oholiab son of Ahisamach, of the tribe of Dan, the ability to teach others. [35] He has filled them with skill to do all kinds of work as craftsmen, designers, embroiderers in blue, purple and scarlet yarn and fine linen, and weavers-- all of them master craftsmen and designers. |
[1] Môi-se nhóm hết hội chúng Y-sơ-ra-ên lại mà nói rằng: Ðây là các việc của Ðức Giê-hô-va đã phán dạy làm:
[2] Người ta sẽ làm công việc trong sáu ngày, nhưng đến ngày thứ bảy sẽ là một lễ thánh, tức là ngày sa-bát biệt riêng ra thánh cho Ðức Giê-hô-va. Ai làm công việc trong ngày đó sẽ bị xử tử. [3] Nhằm ngày sa-bát chớ nổi lửa trong nhà nào của các ngươi hết. [4] Môi-se nói cùng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Ðây là các lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn: [5] Hãy lấy một lễ vật chi ở nhà các ngươi mà dâng cho Ðức Giê-hô-va. Hễ người nào có lòng thành dâng cho, hãy đem lễ vật cho Ðức Giê-hô-va: vàng, bạc và đồng; [6] chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, [7] da chiên đực nhuộm đỏ, da cá nược, cây si-tim, [8] dầu thắp, các thứ hương liệu đặng chế dầu xức và hương thơm, [9] bích ngọc, và các thứ ngọc khác để dùng khảm cho ê-phót và bảng đeo ngực. [10] Trong vòng các ngươi mấy người khôn ngoan hơn hết hãy đến làm mọi điều Ðức Giê-hô-va đã phán dặn; [11] đền tạm, trại và bong của đền tạm, móc, ván, xà ngang, trụ và lỗ trụ; [12] hòm bảng chứng và đòn khiêng, nắp thi ân cùng màn che nơi chí thánh; [13] cài bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn cùng bánh trần thiết; [14] chân đèn, đồ phụ tùng, các đèn và dầu thắp đèn; [15] bàn thờ xông hương cùng đòn khiêng; dầu xức, hương liệu, và bức màn cửa đền tạm; [16] bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng; đòn khiêng và các đồ phụ tùng của bàn thờ; cái thùng và chân thùng; [17] bố vi che hành lang, trụ, lỗ trụ, và bức màn của cửa hành lang; [18] các nọc của đền tạm, cùng nọc và dây của hành lang; [19] bộ áo lễ dùng về công việc trong nơi thánh; bộ áo thánh cho A-rôn, thầy tế lễ cả, và bộ áo cho các con trai người đặng làm chức tế lễ. [20] Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên bèn lui ra khỏi mặt Môi-se. [21] Mọi người có lòng cảm động, và mọi người có lòng thành, đều đem lễ vật đến dâng cho Ðức Giê-hô-va, để làm công việc hội mạc, các đồ phụ tùng và bộ áo thánh. [22] Phàm người nam cùng nữ, tức mọi kẻ có lòng thành, đều đến đem những hoa tai, nhẫn, khâu, kiềng, các thứ trang sức bằng vàng và hết thảy đều dâng lễ vật bằng vàng cho Ðức Giê-hô-va. [23] Kẻ nào ở nhà mình có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, và da cá nược đều đem đến. [24] Hễ ai có chi làm lễ vật bằng bạc hay bằng đồng, đều đem dâng cho Ðức Giê-hô-va, và hễ ai có cây si-tim nơi nhà mình dùng hiệp về các công việc tế lễ, đều đem đến. [25] Phàm người đàn bà khéo thì chánh tay mình kéo chỉ lấy và đem đến món chi họ đã kéo rồi, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn. [26] Còn mấy người đàn bà có cảm động và tài khéo thì kéo chỉ lông dê. [27] Các bực tôn trưởng trong dân sự đem bích ngọc và các thứ ngọc khác để khảm cho ê-phót và bảng đeo ngực; [28] dầu thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và dầu thơm. [29] Cả dân Y-sơ-ra-ên, nam hay nữ, phàm ai có lòng cảm động xui cho mình tình nguyện quyên vào các công việc Ðức Giê-hô-va đã phán dặn nơi Môi-se, đều đem dâng cho Ðức Giê-hô-va các lễ tình nguyện vậy. [30] Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nầy Ðức Giê-hô-va đã kêu danh Bết-sa-lê-ên, con trai của U-ri, cháu của Hu-rơ, trong chi phái Giu-đa. [31] Ngài phú cho người đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời, sự khôn ngoan, sự thông sáng, và sự hiểu biết, để làm mọi thứ nghề thợ, [32] đặng bày ra và làm đồ vàng, bạc và đồng, [33] đặng khắc và khảm các thứ ngọc, đặng chạm cây làm các đồ khéo léo. [34] Ngài lại phú cho người tài dạy dỗ, và cũng đồng ban cho Ô-hô-li-áp, con của A-hi-sa-mạc, trong chi phái Ðan nữa; [35] Ngài phú cho hai người đó đầy sự khôn ngoan đặng làm các công nghệ về thợ thêu, thợ dệt nhiều màu, tức là màu tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai mịn; để bày ra và làm các thứ công nghệ khéo. |
Chapter 36
Chương 36
[1] So Bezalel, Oholiab and every skilled person to whom the LORD has given skill and ability to know how to carry out all the work of constructing the sanctuary are to do the work just as the LORD has commanded."
[2] Then Moses summoned Bezalel and Oholiab and every skilled person to whom the LORD had given ability and who was willing to come and do the work. [3] They received from Moses all the offerings the Israelites had brought to carry out the work of constructing the sanctuary. And the people continued to bring freewill offerings morning after morning. [4] So all the skilled craftsmen who were doing all the work on the sanctuary left their work [5] and said to Moses, "The people are bringing more than enough for doing the work the LORD commanded to be done." [6] Then Moses gave an order and they sent this word throughout the camp: "No man or woman is to make anything else as an offering for the sanctuary." And so the people were restrained from bringing more, [7] because what they already had was more than enough to do all the work. [8] All the skilled men among the workmen made the tabernacle with ten curtains of finely twisted linen and blue, purple and scarlet yarn, with cherubim worked into them by a skilled craftsman. [9] All the curtains were the same size-- twenty-eight cubits long and four cubits wide. [10] They joined five of the curtains together and did the same with the other five. [11] Then they made loops of blue material along the edge of the end curtain in one set, and the same was done with the end curtain in the other set. [12] They also made fifty loops on one curtain and fifty loops on the end curtain of the other set, with the loops opposite each other. [13] Then they made fifty gold clasps and used them to fasten the two sets of curtains together so that the tabernacle was a unit. [14] They made curtains of goat hair for the tent over the tabernacle-- eleven altogether. [15] All eleven curtains were the same size-- thirty cubits long and four cubits wide. [16] They joined five of the curtains into one set and the other six into another set. [17] Then they made fifty loops along the edge of the end curtain in one set and also along the edge of the end curtain in the other set. [18] They made fifty bronze clasps to fasten the tent together as a unit. [19] Then they made for the tent a covering of ram skins dyed red, and over that a covering of hides of sea cows. [20] They made upright frames of acacia wood for the tabernacle. [21] Each frame was ten cubits long and a cubit and a half wide, [22] with two projections set parallel to each other. They made all the frames of the tabernacle in this way. [23] They made twenty frames for the south side of the tabernacle [24] and made forty silver bases to go under them-- two bases for each frame, one under each projection. [25] For the other side, the north side of the tabernacle, they made twenty frames [26] and forty silver bases-- two under each frame. [27] They made six frames for the far end, that is, the west end of the tabernacle, [28] and two frames were made for the corners of the tabernacle at the far end. [29] At these two corners the frames were double from the bottom all the way to the top and fitted into a single ring; both were made alike. [30] So there were eight frames and sixteen silver bases-- two under each frame. [31] They also made crossbars of acacia wood: five for the frames on one side of the tabernacle, [32] five for those on the other side, and five for the frames on the west, at the far end of the tabernacle. [33] They made the center crossbar so that it extended from end to end at the middle of the frames. [34] They overlaid the frames with gold and made gold rings to hold the crossbars. They also overlaid the crossbars with gold. [35] They made the curtain of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen, with cherubim worked into it by a skilled craftsman. [36] They made four posts of acacia wood for it and overlaid them with gold. They made gold hooks for them and cast their four silver bases. [37] For the entrance to the tent they made a curtain of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen-- the work of an embroiderer; [38] and they made five posts with hooks for them. They overlaid the tops of the posts and their bands with gold and made their five bases of bronze. |
[1] Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và các người khôn khéo, tức là người Ðức Giê-hô-va đã phú cho sự khôn ngoan và sự thông sáng đặng làm các công việc định dùng về việc tế lễ nơi thánh, đều làm mọi việc mà Ðức Giê-hô-va đã phán dặn.
[2] Vậy, Môi-se bèn gọi Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp, và các người khôn khéo mà trong lòng họ Ðức Giê-hô-va phú sự thông sáng cùng các người có lòng cảm động xui mình đến gần, đặng làm công việc. [3] Trước mặt Môi-se, họ thâu các lễ vật của dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến, để làm các công việc định dùng và sự tế lễ nơi thánh. Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân sự lại đem đến lễ vật tình nguyện nữa. [4] Thế thì, các người khôn khéo làm mọi công việc của nơi thánh, đều tạm đình, [5] đến nỗi cùng Môi-se rằng: Dân sự đem đến dư bội phần đặng làm các công việc mà Ðức Giê-hô-va đã phán dặn. [6] Theo lịnh truyền của Môi-se, họ bèn đi rao từ trại quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công việc về lễ vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân sự không cho đem đến chi thêm nữa hết. [7] Vì đã đủ các vật liệu đặng làm hết thảy công việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa. [8] Các người khôn khéo trong vòng những người làm công việc, dùng mười bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, thêu hình chê-ru-bin cực xảo, mà dựng đền tạm. [9] Mỗi bức màn đều dài hai mươi tám thước, rộng bốn thước; các bức đều đồng cỡ nhau. [10] Họ kết mỗi năm bức màn dính lại nhau; [11] thắt vòng bằng chỉ tím nơi triêng của bức màn thứ nhất, ở đầu bức nguyên; và cũng làm như vậy cho triêng của bức màn ở nơi chót trong bức nguyên thứ nhì. [12] Họ thắt năm chục vòng theo triêng của bức màn ở đầu của bức nguyên thứ nhất, và năm chục vòng theo triêng bức màn ở chót của bức nguyên thứ nhì; các vòng đối nhau. [13] Ðoạn chế năm chục cái móc bằng vàng, móc bức nầy với bức kia, để cho đền tạm kết lại thành một. [14] Kế đó, họ dùng lông dê kết mười một bức màn, để làm bong trên đền tạm. [15] Bề dài mỗi bức màn ba mươi thước, bề rộng bốn thước: mười một bức màn đều đồng cỡ nhau. [16] Họ kết năm bức màn riêng ra; và sáu bức màn khác riêng ra; [17] thắt năm chục cái vòng nơi triêng bức chót của bức nguyên thứ nhất, và năm chục vòng nơi triêng bức ở đầu của bức nguyên thứ nhì; [18] làm năm chục cái móc bằng đồng, móc bức bong hiệp lại thành một. [19] Họ cũng làm cho đền tạm một tấm lá phủ bằng da chiên đực nhuộm đỏ, và một tấm là phủ bằng da cá nược đắp lên trên. [20] Họ dùng ván bằng cây si-tim làm vách cho đền tạm. [21] Mỗi tấm ván mười thước về dài, một thước rưỡi bề ngang. [22] Mỗi tấm có hai cái mộng liên nhau: cả ván đền tạm đều làm một cách. [23] Vậy, họ làm ván cho đền tạm: hai chục tấm về phía nam; [24] dưới hai chục tấm làm bốn chục lỗ mộng bằng bạc: dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng, để chịu hai cái mộng. [25] Họ cũng làm hai chục tấm ván ở phía bắc đền tạm, [26] và bốn chục lỗ mộng bằng bạc; dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng. [27] Về phía đằng sau của đền tạm, tức là phía tây, họ làm sáu tấm ván, [28] và về hai góc sau thì làm hai tấm ván. [29] Hai tấm ván góc ra khít với nhau từ dưới chí trên bởi một cái khoen ở nơi đầu; hai góc hai bên đều làm như vậy. [30] Thế thì, có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng. [31] Họ làm năm cây xà ngang bằng gỗ si-tim cặp mấy tấm ván về phía bên nầy của đền tạm, [32] năm cây xà ngang khác về phía bên kia, và năm cây xà ngang khác nữa về phía sau đền tạm, tức là phía tây. [33] Họ làm cây xà ngang giữa, đặng lòn qua thân giữa các tấm ván từ đầu nầy đến đầu kia, [34] và bọc vàng mấy tấm ván. Họ làm các khoen của ván bằng vàng, đặng xỏ xà ngang qua, và bọc vàng các cây xà ngang. [35] Họ lại chế một bức màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn, thêu hình chê-ru-bin cực xảo, [36] rồi làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim, bọc vàng, cùng đinh bằng vàng; đúc bốn lỗ trụ bằng bạc cho mấy cây trụ đó. [37] Họ cũng chế cho cửa vào Trại một tấm màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn: ấy là một công việc thêu thùa. [38] Họ cũng làm năm cây trụ cùng đinh, rồi bọc vàng trên đầu trụ, và các cây nuông; còn năm lỗ trụ thì bằng đồng. |
Chapter 37
Chương 37
[1] Bezalel made the ark of acacia wood-- two and a half cubits long, a cubit and a half wide, and a cubit and a half high.
[2] He overlaid it with pure gold, both inside and out, and made a gold molding around it. [3] He cast four gold rings for it and fastened them to its four feet, with two rings on one side and two rings on the other. [4] Then he made poles of acacia wood and overlaid them with gold. [5] And he inserted the poles into the rings on the sides of the ark to carry it. [6] He made the atonement cover of pure gold-- two and a half cubits long and a cubit and a half wide. [7] Then he made two cherubim out of hammered gold at the ends of the cover. [8] He made one cherub on one end and the second cherub on the other; at the two ends he made them of one piece with the cover. [9] The cherubim had their wings spread upward, overshadowing the cover with them. The cherubim faced each other, looking toward the cover. [10] They made the table of acacia wood-- two cubits long, a cubit wide, and a cubit and a half high. [11] Then they overlaid it with pure gold and made a gold molding around it. [12] They also made around it a rim a handbreadth wide and put a gold molding on the rim. [13] They cast four gold rings for the table and fastened them to the four corners, where the four legs were. [14] The rings were put close to the rim to hold the poles used in carrying the table. [15] The poles for carrying the table were made of acacia wood and were overlaid with gold. [16] And they made from pure gold the articles for the table-- its plates and dishes and bowls and its pitchers for the pouring out of drink offerings. [17] They made the lampstand of pure gold and hammered it out, base and shaft; its flowerlike cups, buds and blossoms were of one piece with it. [18] Six branches extended from the sides of the lampstand-- three on one side and three on the other. [19] Three cups shaped like almond flowers with buds and blossoms were on one branch, three on the next branch and the same for all six branches extending from the lampstand. [20] And on the lampstand were four cups shaped like almond flowers with buds and blossoms. [21] One bud was under the first pair of branches extending from the lampstand, a second bud under the second pair, and a third bud under the third pair-- six branches in all. [22] The buds and the branches were all of one piece with the lampstand, hammered out of pure gold. [23] They made its seven lamps, as well as its wick trimmers and trays, of pure gold. [24] They made the lampstand and all its accessories from one talent of pure gold. [25] They made the altar of incense out of acacia wood. It was square, a cubit long and a cubit wide, and two cubits high--its horns of one piece with it. [26] They overlaid the top and all the sides and the horns with pure gold, and made a gold molding around it. [27] They made two gold rings below the molding-- two on opposite sides-- to hold the poles used to carry it. [28] They made the poles of acacia wood and overlaid them with gold. [29] They also made the sacred anointing oil and the pure, fragrant incense-- the work of a perfumer. |
[1] Ðoạn, Bết-sa-lê-ên đóng hòm bằng cây si-tim, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi.
[2] Người bọc vàng ròng bề trong và bề ngoài, cùng chạy đường viền chung quanh. [3] Ðúc bốn cái khoen vàng đặng gắn bốn góc: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia. [4] Người cũng chuốt các đòn bằng cây si-tim, bọc vàng; [5] rồi xỏ đòn đó vào khoen hai bên hông, đặng khiêng hòm. [6] Người cũng làm một cái nắp thi ân bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. [7] Làm hai tượng chê-ru-bin bằng vàng đánh giát để nơi hai đầu nắp thi ân, [8] một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia, ló ra nơi hai đầu nắp. [9] Hai chê-ru-bin sè cánh ra che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân. [10] Người cũng đóng một cái bàn bằng cây si-tim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, bề cao một thước rưỡi; [11] bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung quanh. [12] Lại cùng lên be cho tứ vi bàn cao chừng bốn ngón tay, và chạy cho be một đường viền vàng. [13] Người đúc bốn cái khoen vàng tra vào bốn góc, tại nơi chân bàn. [14] Các khoen ở gần nơi be để xỏ đòn vào, đặng khiêng bàn; [15] người chuốt đòn bằng cây si-tim, bọc vàng, đặng khiêng bàn. [16] Lại cũng lấy vàng ròng mà làm các đồ dùng bày trên bàn: dĩa, chén, ly, và chậu, để dùng làm lễ quán. [17] Người cũng làm chân đèn bằng vàng ròng; cái chân, cái thân, cái đài, cái bầu, và cái hoa đều làm ra bằng vàng đánh giát. [18] Hai bên thân đèn có sáu nhánh nứt ra, ba nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. [19] Trong sáu nhánh nứt ra trên thân chân đèn, mỗi nhánh đều có ba cái đài hình như hột hạnh nhân, cùng bầu và hoa. [20] Trên thân chân đèn lại cũng có bốn cái đài hình như hột hạnh nhân, cùng bầu và hoa. [21] Trong sáu nhánh từ thân chân đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh, thì dưới có một cái bầu. [22] Bầu và nhành của chân đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh giát. [23] Người cũng làm bảy cái thếp đèn, kéo bắt tim và đồ đựng tàn bằng vàng ròng. [24] Người dùng một ta lâng vàng ròng, mà làm chân đèn và các đồ phụ tùng của chân đèn. [25] Người cũng đóng một cái bàn thờ xông hương bằng cây si-tim, hình vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước. Bàn thờ có bốn sừng ló ra. [26] Người bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung quanh và các sừng; tứ vi cũng chạy dường viền vàng. [27] Dưới đường viền đó, nơi hai bên góc, người làm hai cái khoen vàng để xỏ đòn, đặng khiêng. [28] Người chuốt đòn bằng cây si-tim và bọc vàng. [29] Người cũng chế dầu thánh để xức, và hương thanh sạch bằng các hương liệu theo nghề thợ chế hương. |
Chapter 38
Chương 38
[1] They built the altar of burnt offering of acacia wood, three cubits high; it was square, five cubits long and five cubits wide.
[2] They made a horn at each of the four corners, so that the horns and the altar were of one piece, and they overlaid the altar with bronze. [3] They made all its utensils of bronze-- its pots, shovels, sprinkling bowls, meat forks and firepans. [4] They made a grating for the altar, a bronze network, to be under its ledge, halfway up the altar. [5] They cast bronze rings to hold the poles for the four corners of the bronze grating. [6] They made the poles of acacia wood and overlaid them with bronze. [7] They inserted the poles into the rings so they would be on the sides of the altar for carrying it. They made it hollow, out of boards. [8] They made the bronze basin and its bronze stand from the mirrors of the women who served at the entrance to the Tent of Meeting. [9] Next they made the courtyard. The south side was a hundred cubits long and had curtains of finely twisted linen, [10] with twenty posts and twenty bronze bases, and with silver hooks and bands on the posts. [11] The north side was also a hundred cubits long and had twenty posts and twenty bronze bases, with silver hooks and bands on the posts. [12] The west end was fifty cubits wide and had curtains, with ten posts and ten bases, with silver hooks and bands on the posts. [13] The east end, toward the sunrise, was also fifty cubits wide. [14] Curtains fifteen cubits long were on one side of the entrance, with three posts and three bases, [15] and curtains fifteen cubits long were on the other side of the entrance to the courtyard, with three posts and three bases. [16] All the curtains around the courtyard were of finely twisted linen. [17] The bases for the posts were bronze. The hooks and bands on the posts were silver, and their tops were overlaid with silver; so all the posts of the courtyard had silver bands. [18] The curtain for the entrance to the courtyard was of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen-- the work of an embroiderer. It was twenty cubits long and, like the curtains of the courtyard, five cubits high, [19] with four posts and four bronze bases. Their hooks and bands were silver, and their tops were overlaid with silver. [20] All the tent pegs of the tabernacle and of the surrounding courtyard were bronze. [21] These are the amounts of the materials used for the tabernacle, the tabernacle of the Testimony, which were recorded at Moses' command by the Levites under the direction of Ithamar son of Aaron, the priest. [22] (Bezalel son of Uri, the son of Hur, of the tribe of Judah, made everything the LORD commanded Moses; [23] with him was Oholiab son of Ahisamach, of the tribe of Dan-- a craftsman and designer, and an embroiderer in blue, purple and scarlet yarn and fine linen.) [24] The total amount of the gold from the wave offering used for all the work on the sanctuary was 29 talents and 730 shekels, according to the sanctuary shekel. [25] The silver obtained from those of the community who were counted in the census was 100 talents and 1,775 shekels, according to the sanctuary shekel-- [26] one beka per person, that is, half a shekel, according to the sanctuary shekel, from everyone who had crossed over to those counted, twenty years old or more, a total of 603,550 men. [27] The 100 talents of silver were used to cast the bases for the sanctuary and for the curtain-- 100 bases from the 100 talents, one talent for each base. [28] They used the 1,775 shekels to make the hooks for the posts, to overlay the tops of the posts, and to make their bands. [29] The bronze from the wave offering was 70 talents and 2,400 shekels. [30] They used it to make the bases for the entrance to the Tent of Meeting, the bronze altar with its bronze grating and all its utensils, [31] the bases for the surrounding courtyard and those for its entrance and all the tent pegs for the tabernacle and those for the surrounding courtyard. |
[1] Người cũng đóng bàn thờ về của lễ thiêu bằng cây si-tim, hình vuông, bề dài năm thước, bề ngang năm thước và bề cao ba thước.
[2] Người làm nơi bốn góc bàn thờ những sừng ló ra, bọc đồng. [3] Rồi làm các đồ phụ tùng của bàn thờ bằng đồng: chảo nhỏ, vá, ảng, nỉa, và bình hương. [4] Lại làm một tấm rá bằng lưới đồng để dưới thành bàn thờ, từ chân lên đến ngang giữa, [5] và đúc cái khoen cho bốn góc rá lưới đồng, đặng xỏ đòn khiêng. [6] Ðoạn, chuốt đòn khiêng bằng cây si-tim, và bọc đồng; [7] xỏ đòn vào khoen nơi hai bên bàn thờ, đặng khiêng bàn đi. Người đóng bàn thờ bằng ván, trống bộng. [8] Người dùng các tấm gương của mấy người đàn bà hầu việc nơi cửa hội mạc, chế ra một cái thùng và chân thùng bằng đồng. [9] Người cũng làm hành lang: về phía nam mấy bức bố vi của hành lang bằng vải gai đậu mịn, dài trăm thước; [10] hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. [11] Về phía bắc, cũng một trăm thước bố vi, hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. [12] Về phía tây, năm chục thước bố vi, mười cây trụ, và mười lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. [13] Về phía trước, là phía đông, cũng năm chục thước: [14] nghĩa là bên hữu của hành lang mười lăm thước bố vi ba cây trụ và ba lỗ trụ; [15] bên tả của hành lang cũng mười lăm thước bố vi, ba cây trụ và ba lỗ trụ. [16] Hết thảy bố vi của hành lang ở chung quanh đều bằng vải gai đậu mịn; [17] các lỗ trụ bằng đồng, đinh, nuông bằng bạc, và đầu trụ bọc bạc. Hết thảy trụ của hành lang đều nhờ có nuông bạc chắp với nhau. [18] Tấm màn nơi cửa hành lang làm thêu thùa bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn; bề dài hai chục thước, bề cao (tùy theo bề khổ của vải) năm thước, đồng cỡ với bề cao của các bố vi chung quanh hành lang. [19] Bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng, đinh, đồ bọc đầu trụ, và những nuông đều bằng bạc. [20] Các nọc của đền tạm và của hành lang chung quanh đều bằng đồng. [21] Ðây là sổ tổng cộng về đền tạm, là đền tạm chứng cớ theo lịnh truyền của Môi-se biểu người Lê-vi làm ra, nhờ Y-tha-ma, con trai của thầy tế lễ cả A-rôn, cai quản. [22] Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc về chi phái Giu-đa, làm theo mọi điều Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, [23] và kẻ giúp người là Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc về chi phái Ðan, làm thợ chạm, kẻ bày vẽ, thợ thêu thùa bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và bằng chỉ gai mịn. [24] Hết thảy vàng đã hiệp dùng vào các công việc nơi thánh (ấy là vàng dâng) được hai mươi chín ta lâng, bảy trăm ba chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. [25] Bạc của mấy người hội chúng có kể sổ tổng cộng được một trăm ta lâng, một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. [26] Hết thảy người nào có kể sổ, từ hai mươi tuổi sắp lên, nghĩa là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm chục người, mỗi người nộp nửa siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. [27] Vậy, phải một trăm ta lâng bạc đặng đúc các lỗ trụ của nơi thánh, và lỗ trụ màn; một trăm ta lâng cho một trăm lỗ trụ, tức một ta lâng vào mỗi lỗ trụ. [28] Còn một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm siếc-lơ dư lại, thì dùng làm đinh trụ, bọc đầu trụ và lấy nuông chắp các trụ với nhau. [29] Ðồng đem dâng cộng được bảy chục ta lâng, hai ngàn bốn trăm siếc-lơ. [30] Họ dùng đồng đó làm lỗ trụ của cửa hội mạc, bàn thờ bằng đồng, rá bằng đồng, các đồ phụ tùng của bàn thờ; [31] các lỗ trụ của hành lang chung quanh, các lỗ trụ của cửa hành lang, các nọc của đền tạm, và các nọc của hành lang chung quanh. |
Chapter 39
Chương 39
[1] From the blue, purple and scarlet yarn they made woven garments for ministering in the sanctuary. They also made sacred garments for Aaron, as the LORD commanded Moses.
[2] They made the ephod of gold, and of blue, purple and scarlet yarn, and of finely twisted linen. [3] They hammered out thin sheets of gold and cut strands to be worked into the blue, purple and scarlet yarn and fine linen-- the work of a skilled craftsman. [4] They made shoulder pieces for the ephod, which were attached to two of its corners, so it could be fastened. [5] Its skillfully woven waistband was like it-- of one piece with the ephod and made with gold, and with blue, purple and scarlet yarn, and with finely twisted linen, as the LORD commanded Moses. [6] They mounted the onyx stones in gold filigree settings and engraved them like a seal with the names of the sons of Israel. [7] Then they fastened them on the shoulder pieces of the ephod as memorial stones for the sons of Israel, as the LORD commanded Moses. [8] They fashioned the breastpiece-- the work of a skilled craftsman. They made it like the ephod: of gold, and of blue, purple and scarlet yarn, and of finely twisted linen. [9] It was square-- a span long and a span wide-- and folded double. [10] Then they mounted four rows of precious stones on it. In the first row there was a ruby, a topaz and a beryl; [11] in the second row a turquoise, a sapphire and an emerald; [12] in the third row a jacinth, an agate and an amethyst; [13] in the fourth row a chrysolite, an onyx and a jasper. They were mounted in gold filigree settings. [14] There were twelve stones, one for each of the names of the sons of Israel, each engraved like a seal with the name of one of the twelve tribes. [15] For the breastpiece they made braided chains of pure gold, like a rope. [16] They made two gold filigree settings and two gold rings, and fastened the rings to two of the corners of the breastpiece. [17] They fastened the two gold chains to the rings at the corners of the breastpiece, [18] and the other ends of the chains to the two settings, attaching them to the shoulder pieces of the ephod at the front. [19] They made two gold rings and attached them to the other two corners of the breastpiece on the inside edge next to the ephod. [20] Then they made two more gold rings and attached them to the bottom of the shoulder pieces on the front of the ephod, close to the seam just above the waistband of the ephod. [21] They tied the rings of the breastpiece to the rings of the ephod with blue cord, connecting it to the waistband so that the breastpiece would not swing out from the ephod-- as the LORD commanded Moses. [22] They made the robe of the ephod entirely of blue cloth-- the work of a weaver-- [23] with an opening in the center of the robe like the opening of a collar, and a band around this opening, so that it would not tear. [24] They made pomegranates of blue, purple and scarlet yarn and finely twisted linen around the hem of the robe. [25] And they made bells of pure gold and attached them around the hem between the pomegranates. [26] The bells and pomegranates alternated around the hem of the robe to be worn for ministering, as the LORD commanded Moses. [27] For Aaron and his sons, they made tunics of fine linen-- the work of a weaver-- [28] and the turban of fine linen, the linen headbands and the undergarments of finely twisted linen. [29] The sash was of finely twisted linen and blue, purple and scarlet yarn-- the work of an embroiderer-- as the LORD commanded Moses. [30] They made the plate, the sacred diadem, out of pure gold and engraved on it, like an inscription on a seal: HOLY TO THE LORD. [31] Then they fastened a blue cord to it to attach it to the turban, as the LORD commanded Moses. [32] So all the work on the tabernacle, the Tent of Meeting, was completed. The Israelites did everything just as the LORD commanded Moses. [33] Then they brought the tabernacle to Moses: the tent and all its furnishings, its clasps, frames, crossbars, posts and bases; [34] the covering of ram skins dyed red, the covering of hides of sea cows and the shielding curtain; [35] the ark of the Testimony with its poles and the atonement cover; [36] the table with all its articles and the bread of the Presence; [37] the pure gold lampstand with its row of lamps and all its accessories, and the oil for the light; [38] the gold altar, the anointing oil, the fragrant incense, and the curtain for the entrance to the tent; [39] the bronze altar with its bronze grating, its poles and all its utensils; the basin with its stand; [40] the curtains of the courtyard with its posts and bases, and the curtain for the entrance to the courtyard; the ropes and tent pegs for the courtyard; all the furnishings for the tabernacle, the Tent of Meeting; [41] and the woven garments worn for ministering in the sanctuary, both the sacred garments for Aaron the priest and the garments for his sons when serving as priests. [42] The Israelites had done all the work just as the LORD had commanded Moses. [43] Moses inspected the work and saw that they had done it just as the LORD had commanded. So Moses blessed them. |
[1] Họ dùng chỉ màu tím, đỏ điều, đỏ sặm mà chế bộ áo định cho sự tế lễ trong nơi thánh, và bộ áo thánh cho A-rôn, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
[2] Vậy, họ chế ê-phót bằng kim tuyến, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn. [3] Họ căng vàng lá ra, cắt thành sợi chỉ mà xen cùng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn, chế thật cực xảo. [4] Họ may hai đai vai ê-phót, đâu hai đầu dính lại. [5] Ðai để cột ê-phót, phía ngoài, làm nguyên miếng một y như công việc của ê-phót: bằng kim tuyến, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và bằng chỉ gai đậu mịn, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [6] Họ khảm trong khuôn vàng các bích ngọc có khắc tên các chi phái Y-sơ-ra-ên, như người ta khắc con dấu. [7] Họ để các ngọc đó trên đai vai ê-phót đặng làm ngọc kỷ niệm về dân Y-sơ-ra-ên, y như lời Ðức Giê-hô-va phán dặn Môi-se. [8] Họ cũng chế bảng đeo ngực cực xảo, như công việc ê-phót: bằng kim tuyến, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai đậu mịn. [9] Bảng đeo ngực may lót, hình vuông, bề dài một em-ban, bề ngang một em-ban. [10] Họ nhận bốn hàng ngọc: hàng thứ nhất, ngọc mã não, ngọc hồng bích, và ngọc lục bửu; [11] hàng thứ nhì, ngọc phỉ túy, ngọc lam bửu, và ngọc kim cương; [12] hàng thứ ba, ngọc hồng bửu, ngọc bạch mã não, và ngọc tử tinh; [13] hàng thứ tư, ngọc huỳnh bích, ngọc hồng mã não, và bích ngọc. Các ngọc nầy đều khảm vàng. [14] Số ngọc là mười hai, tùy theo số danh của các con trai Y-sơ-ra-ên. Mỗi viên ngọc có khắc một tên trong mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên như người ta khắc con dấu. [15] Ðoạn, trên bảng đeo ngực họ chế các sợi chuyền bằng vàng ròng, đánh lại như hình dây. [16] Cũng làm hai cái móc và hai cái khoanh bằng vàng, để hai khoanh nơi hai góc đầu bảng đeo ngực; [17] cùng cột hai sợi chuyền vàng vào hai khoanh đó. [18] Rồi chuyền hai đầu của hai sợi chuyền vào móc gài nơi đai vai ê-phót, về phía trước ngực. [19] Cũng làm hai khoanh vàng khác để vào hai góc đầu dưới của bảng đeo ngực, về phía trong ê-phót. [20] Lại làm hai khoanh vàng khác nữa để nơi đầu dưới của hai đai vai ê-phót, về phía trước, ở trên đai, gần chỗ giáp mối. [21] Họ lấy một sợi dây màu tím, cột hai cái khoanh của bảng đeo ngực lại cùng hai cái khoanh ê-phót, hầu cho nó dính với đai và đừng rớt khỏi ê-phót, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [22] Họ cũng chế áo dài của ê-phót bằng vải thường toàn màu tím. [23] Cổ để tròng đầu vào, ở về chính giữa áo, như lỗ áo giáp, có viền chung quanh cho khỏi tét. [24] Nơi trôn áo, thắt những trái lựu bằng chỉ xe mịn màu tím, đỏ điều, đỏ sặm; [25] lại làm chuông nhỏ bằng vàng ròng, gắn giữa hai trái lựu, vòng theo chung quanh trôn áo; [26] cứ một trái lựu, kế một cái chuông nhỏ, vòng theo chung quanh trôn áo dùng để hầu việc, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [27] Họ cũng chế áo lá mặc trong bằng vải gai mịn, dệt thường, cho A-rôn cùng các con trai người; [28] luôn cái mũ, đồ trang sức của mũ, và quần lót trong, đều bằng vải gai đậu mịn; [29] cùng cái đai bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, có thêu, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [30] Họ cũng dùng vàng lá ròng chế cái thẻ thánh, khắc trên đó như người ta khắc con dấu, rằng: Thánh Cho Ðức Giê-hô-va! [31] Rồi lấy một sợi dây tím đặng cột để trên mũ, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [32] Các công việc của đền tạm và hội mạc làm xong là như vậy. Dân Y-sơ-ra-ên làm y như mọi lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [33] Họ đem đền tạm đến cho Môi-se: Trại và các đồ phụ tùng của Trại, nọc, ván, xà ngang, trụ và lỗ trụ; [34] bong da chiên đực nhuộm đỏ, bong da cá nược và cái màn; [35] hòm bảng chứng và đòn khiêng, cùng nắp thi ân; [36] bàn và đồ phụ tùng của bàn cùng bánh trần thiết; [37] chân đèn bằng vàng ròng, thếp đèn đã sắp sẵn, các đồ phụ tùng của chân đèn và dầu thắp, [38] bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương liệu, tấm màn của cửa Trại; [39] bàn thờ bằng đồng và rá đồng, đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn thờ, thùng và chân thùng; [40] các bố vi của hành lang, trụ, lỗ trụ, màn của cửa hành lang, dây, nọc, hết thảy đồ phụ tùng về việc tế lễ của đền tạm; [41] bộ áo lễ đặng hầu việc trong nơi thánh, bộ áo thánh cho A-rôn, thầy tế lễ cả, và bộ áo của các con trai người để làm chức tế lễ. [42] Dân Y-sơ-ra-ên làm mọi công việc nầy y như mạng lịnh của Ðức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. [43] Môi-se xem các công việc làm, thấy họ đều làm y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn; đoạn Môi-se chúc phước cho họ. |
Chapter 40
Chương 40
[1] Then the LORD said to Moses:
[2] "Set up the tabernacle, the Tent of Meeting, on the first day of the first month. [3] Place the ark of the Testimony in it and shield the ark with the curtain. [4] Bring in the table and set out what belongs on it. Then bring in the lampstand and set up its lamps. [5] Place the gold altar of incense in front of the ark of the Testimony and put the curtain at the entrance to the tabernacle. [6] "Place the altar of burnt offering in front of the entrance to the tabernacle, the Tent of Meeting; [7] place the basin between the Tent of Meeting and the altar and put water in it. [8] Set up the courtyard around it and put the curtain at the entrance to the courtyard. [9] "Take the anointing oil and anoint the tabernacle and everything in it; consecrate it and all its furnishings, and it will be holy. [10] Then anoint the altar of burnt offering and all its utensils; consecrate the altar, and it will be most holy. [11] Anoint the basin and its stand and consecrate them. [12] "Bring Aaron and his sons to the entrance to the Tent of Meeting and wash them with water. [13] Then dress Aaron in the sacred garments, anoint him and consecrate him so he may serve me as priest. [14] Bring his sons and dress them in tunics. [15] Anoint them just as you anointed their father, so they may serve me as priests. Their anointing will be to a priesthood that will continue for all generations to come." [16] Moses did everything just as the LORD commanded him. [17] So the tabernacle was set up on the first day of the first month in the second year. [18] When Moses set up the tabernacle, he put the bases in place, erected the frames, inserted the crossbars and set up the posts. [19] Then he spread the tent over the tabernacle and put the covering over the tent, as the LORD commanded him. [20] He took the Testimony and placed it in the ark, attached the poles to the ark and put the atonement cover over it. [21] Then he brought the ark into the tabernacle and hung the shielding curtain and shielded the ark of the Testimony, as the LORD commanded him. [22] Moses placed the table in the Tent of Meeting on the north side of the tabernacle outside the curtain [23] and set out the bread on it before the LORD, as the LORD commanded him. [24] He placed the lampstand in the Tent of Meeting opposite the table on the south side of the tabernacle [25] and set up the lamps before the LORD, as the LORD commanded him. [26] Moses placed the gold altar in the Tent of Meeting in front of the curtain [27] and burned fragrant incense on it, as the LORD commanded him. [28] Then he put up the curtain at the entrance to the tabernacle. [29] He set the altar of burnt offering near the entrance to the tabernacle, the Tent of Meeting, and offered on it burnt offerings and grain offerings, as the LORD commanded him. [30] He placed the basin between the Tent of Meeting and the altar and put water in it for washing, [31] and Moses and Aaron and his sons used it to wash their hands and feet. [32] They washed whenever they entered the Tent of Meeting or approached the altar, as the LORD commanded Moses. [33] Then Moses set up the courtyard around the tabernacle and altar and put up the curtain at the entrance to the courtyard. And so Moses finished the work. [34] Then the cloud covered the Tent of Meeting, and the glory of the LORD filled the tabernacle. [35] Moses could not enter the Tent of Meeting because the cloud had settled upon it, and the glory of the LORD filled the tabernacle. [36] In all the travels of the Israelites, whenever the cloud lifted from above the tabernacle, they would set out; [37] but if the cloud did not lift, they did not set out-- until the day it lifted. [38] So the cloud of the LORD was over the tabernacle by day, and fire was in the cloud by night, in the sight of all the house of Israel during all their travels. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
[2] Ngày mồng một tháng giêng, ngươi sẽ dựng đền tạm. [3] Hãy để trong đó cái hòm bảng chứng, rồi lấy màn phủ lại. [4] Cũng hãy đem bàn đến, chưng bày các đồ trên bàn cho có thứ tự, cùng chân đèn và thắp các đèn; [5] cũng hãy để bàn thờ bằng vàng dùng xông hương trước hòm bảng chứng, rồi xủ tấm màn nơi cửa đền tạm. [6] Cũng hãy để bàn thờ về của lễ thiêu đằng trước cửa đền tạm; [7] và để cái thùng ở giữa khoảng hội mạc và bàn thờ; rồi đổ nước vào; [8] lại chừa hành lang chung quanh và xủ tấm màn nơi cửa hành lang. [9] Ðoạn, ngươi hãy lấy dầu xức mà xức đền tạm và các đồ để trong đó; biệt riêng đền tạm ra thánh, thì sẽ làm thánh vậy. [10] Cũng hãy xức dầu bàn thờ về của lễ thiêu, và các đồ phụ tùng của bàn thờ; rồi biệt riêng ra thánh, thì bàn thờ sẽ làm rất thánh. [11] Cũng hãy xức dầu cho thùng và chân thùng; biệt thùng riêng ra thánh. [12] Ðoạn, hãy dẫn A-rôn cùng các con trai người đến gần cửa hội mạc, rồi tắm họ trong nước. [13] Ngươi hãy mặc áo thánh cho A-rôn, xức dầu và biệt người riêng ra thánh; vậy người sẽ làm chức tế lễ trước mặt ta. [14] Hãy dẫn các con trai người đến gần, rồi mặc áo lá cho họ; [15] xức dầu cho như ngươi đã xức cho cha họ, thì họ sẽ làm chức tế lễ trước mặt ta. Sự xức dầu sẽ phong cho họ chức tế lễ mãi mãi trải qua các đời. [16] Môi-se làm y như mọi điều Ðức Giê-hô-va đã phán dặn mình. [17] Ðến ngày mồng một tháng giêng về năm thứ hai, thì đền tạm đã dựng. [18] Môi-se dựng đền tạm, để mấy lỗ trụ, đóng ván, thả xà ngang và dựng trụ. [19] Người căng bong trên đền tạm, rồi trải lá phủ bong lên trên, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [20] Ðoạn, người cũng lấy bảng chứng, để trong hòm, xỏ đòn khiêng vào, để nắp thi ân lên trên hòm. [21] Người khiêng hòm vào đền tạm và treo màn để che chỗ chí thánh, phủ hòm bảng chứng lại, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [22] Người cũng để cái bàn trong hội mạc, về phía bắc đền tạm ở ngoài bức màn; [23] rồi sắp một hàng bánh ở trên, trước mặt Ðức Giê-hô-va, y như lời Ngài đã phán dặn Môi-se. [24] Ðể chân đèn trong hội mạc về phía nam, đối diện cùng cái bàn. [25] Người thắp đèn trước mặt Ðức Giê-hô-va, y như lời Ngài đã phán dặn Môi-se. [26] Ðể bàn thờ bằng vàng trước bức màn trong hội mạc; [27] trên đó người xông hương, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [28] Người cũng xủ màn nơi cửa đền tạm. [29] Ðoạn, người để bàn thờ về của lễ thiêu nơi cửa đền tạm, dâng trên đó của lễ thiêu và của lễ chay, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [30] Cũng để thùng về giữa khoảng hội mạc và bàn thờ, cùng đổ nước vào đặng tắm rửa; [31] Môi-se, A-rôn cùng các con trai của A-rôn, rửa tay và chân mình vào đó. [32] Khi nào họ vào hội mạc và lại gần bàn thờ thì rửa mình, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. [33] Chung quanh đền tạm và bàn thờ, người cũng chừa hành lang, và xủ màn nơi cửa hành lang. Ấy, Môi-se làm xong công việc là như vậy. [34] Áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Ðức Giê-hô-va đầy dẫy đền tạm, [35] cho đến nỗi Môi-se vào chẳng đặng, vì áng mây bao phủ ở trên và sự vinh hiển của Ðức Giê-hô-va đầy dẫy đền tạm. [36] Vả, trong các sự hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, khi nào áng mây từ đền tạm ngự lên thì họ ra đi; [37] còn nếu áng mây không ngự lên thì họ cũng không đi, cho đến ngày nào áng mây ngự lên. [38] Vì trong các sự hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, thì áng mây của Ðức Giê-hô-va ở trên đền tạm ban ngày, và có lửa ở trên đó ban đêm hiện trước mặt cả dân Y-sơ-ra-ên. |