New International Version 1984
|
Vietnamese Traditional Version 1934
|
Revelation
|
Genesis
|
Exodus
|
Chapter 1
Chương 1
[1] In the beginning God created the heavens and the earth.
[2] Now the earth was formless and empty, darkness was over the surface of the deep, and the Spirit of God was hovering over the waters. [3] And God said, "Let there be light," and there was light. [4] God saw that the light was good, and he separated the light from the darkness. [5] God called the light "day," and the darkness he called "night." And there was evening, and there was morning-- the first day. [6] And God said, "Let there be an expanse between the waters to separate water from water." [7] So God made the expanse and separated the water under the expanse from the water above it. And it was so. [8] God called the expanse "sky." And there was evening, and there was morning-- the second day. [9] And God said, "Let the water under the sky be gathered to one place, and let dry ground appear." And it was so. [10] God called the dry ground "land," and the gathered waters he called "seas." And God saw that it was good. [11] Then God said, "Let the land produce vegetation: seed-bearing plants and trees on the land that bear fruit with seed in it, according to their various kinds." And it was so. [12] The land produced vegetation: plants bearing seed according to their kinds and trees bearing fruit with seed in it according to their kinds. And God saw that it was good. [13] And there was evening, and there was morning-- the third day. [14] And God said, "Let there be lights in the expanse of the sky to separate the day from the night, and let them serve as signs to mark seasons and days and years, [15] and let them be lights in the expanse of the sky to give light on the earth." And it was so. [16] God made two great lights-- the greater light to govern the day and the lesser light to govern the night. He also made the stars. [17] God set them in the expanse of the sky to give light on the earth, [18] to govern the day and the night, and to separate light from darkness. And God saw that it was good. [19] And there was evening, and there was morning-- the fourth day. [20] And God said, "Let the water teem with living creatures, and let birds fly above the earth across the expanse of the sky." [21] So God created the great creatures of the sea and every living and moving thing with which the water teems, according to their kinds, and every winged bird according to its kind. And God saw that it was good. [22] God blessed them and said, "Be fruitful and increase in number and fill the water in the seas, and let the birds increase on the earth." [23] And there was evening, and there was morning-- the fifth day. [24] And God said, "Let the land produce living creatures according to their kinds: livestock, creatures that move along the ground, and wild animals, each according to its kind." And it was so. [25] God made the wild animals according to their kinds, the livestock according to their kinds, and all the creatures that move along the ground according to their kinds. And God saw that it was good. [26] Then God said, "Let us make man in our image, in our likeness, and let them rule over the fish of the sea and the birds of the air, over the livestock, over all the earth, and over all the creatures that move along the ground." [27] So God created man in his own image, in the image of God he created him; male and female he created them. [28] God blessed them and said to them, "Be fruitful and increase in number; fill the earth and subdue it. Rule over the fish of the sea and the birds of the air and over every living creature that moves on the ground." [29] Then God said, "I give you every seed-bearing plant on the face of the whole earth and every tree that has fruit with seed in it. They will be yours for food. [30] And to all the beasts of the earth and all the birds of the air and all the creatures that move on the ground-- everything that has the breath of life in it-- I give every green plant for food." And it was so. [31] God saw all that he had made, and it was very good. And there was evening, and there was morning-- the sixth day. |
[1] Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất.
[2] Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. [3] Ðức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng. [4] Ðức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối. [5] Ðức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt. [6] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ nước cách với nước. [7] Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không; thì có như vậy. [8] Ðức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhì. [9] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy. [10] Ðức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. [11] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy. [12] Ðất sanh cây cỏ: cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình, tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. [13] Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba. [14] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm; [15] lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có như vậy. [16] Ðức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao. [17] Ðức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất, [18] đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. [19] Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư. [20] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời. [21] Ðức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. [22] Ðức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều. [23] Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm. [24] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy. [25] Ðức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. [26] Ðức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. [27] Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Ðức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. [28] Ðức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. [29] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi. [30] Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy. [31] Ðức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu. |
Chapter 2
Chương 2
[1] Thus the heavens and the earth were completed in all their vast array.
[2] By the seventh day God had finished the work he had been doing; so on the seventh day he rested from all his work. [3] And God blessed the seventh day and made it holy, because on it he rested from all the work of creating that he had done. [4] This is the account of the heavens and the earth when they were created. When the LORD God made the earth and the heavens-- [5] and no shrub of the field had yet appeared on the earth and no plant of the field had yet sprung up, for the LORD God had not sent rain on the earth and there was no man to work the ground, [6] but streams came up from the earth and watered the whole surface of the ground-- [7] the LORD God formed the man from the dust of the ground and breathed into his nostrils the breath of life, and the man became a living being. [8] Now the LORD God had planted a garden in the east, in Eden; and there he put the man he had formed. [9] And the LORD God made all kinds of trees grow out of the ground-- trees that were pleasing to the eye and good for food. In the middle of the garden were the tree of life and the tree of the knowledge of good and evil. [10] A river watering the garden flowed from Eden; from there it was separated into four headwaters. [11] The name of the first is the Pishon; it winds through the entire land of Havilah, where there is gold. [12] (The gold of that land is good; aromatic resin and onyx are also there.) [13] The name of the second river is the Gihon; it winds through the entire land of Cush. [14] The name of the third river is the Tigris; it runs along the east side of Asshur. And the fourth river is the Euphrates. [15] The LORD God took the man and put him in the Garden of Eden to work it and take care of it. [16] And the LORD God commanded the man, "You are free to eat from any tree in the garden; [17] but you must not eat from the tree of the knowledge of good and evil, for when you eat of it you will surely die." [18] The LORD God said, "It is not good for the man to be alone. I will make a helper suitable for him." [19] Now the LORD God had formed out of the ground all the beasts of the field and all the birds of the air. He brought them to the man to see what he would name them; and whatever the man called each living creature, that was its name. [20] So the man gave names to all the livestock, the birds of the air and all the beasts of the field. But for Adam no suitable helper was found. [21] So the LORD God caused the man to fall into a deep sleep; and while he was sleeping, he took one of the man's ribs and closed up the place with flesh. [22] Then the LORD God made a woman from the rib he had taken out of the man, and he brought her to the man. [23] The man said, "This is now bone of my bones and flesh of my flesh; she shall be called 'woman', for she was taken out of man." [24] For this reason a man will leave his father and mother and be united to his wife, and they will become one flesh. [25] The man and his wife were both naked, and they felt no shame. |
[1] Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã dựng nên xong rồi.
[2] Ngày thứ bảy, Ðức Chúa Trời làm xong các công việc Ngài đã làm, và ngày thứ bảy, Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm. [3] Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi. [4] Ấy là gốc tích trời và đất khi đã dựng nên, trong lúc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời dựng nên trời và đất. [5] Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng, vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chưa có cho mưa xuống trên đất, và cũng chẳng có một người nào cày cấy đất nữa. [6] Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất, [7] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh. [8] Ðoạn, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Ðông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. [9] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác. [10] Một con sông từ Ê-đen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. [11] Tên ngả thứ nhứt là Bi-sôn; ngả đó chảy quanh xứ Ha-vi-la, là nơi có vàng. [12] Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bính ngọc. [13] Tên sông thứ nhì là Ghi-hôn, chảy quanh xứ Cu-sơ. [14] Tên sông thứ ba là Hi-đê-ke, chảy về phía đông bờ cõi A-si-ri. Còn sông thứ tư là sông Ơ-phơ-rát. [15] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. [16] Rồi, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; [17] nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết. [18] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. [19] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó. [20] A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết. [21] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sường, rồi lấp thịt thế vào. [22] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời dùng xương sường đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam. [23] A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có. [24] Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một thịt. [25] Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn. |
Chapter 3
Chương 3
[1] Now the serpent was more crafty than any of the wild animals the LORD God had made. He said to the woman, "Did God really say, 'You must not eat from any tree in the garden'?"
[2] The woman said to the serpent, "We may eat fruit from the trees in the garden, [3] but God did say, 'You must not eat fruit from the tree that is in the middle of the garden, and you must not touch it, or you will die.'" [4] "You will not surely die," the serpent said to the woman. [5] "For God knows that when you eat of it your eyes will be opened, and you will be like God, knowing good and evil." [6] When the woman saw that the fruit of the tree was good for food and pleasing to the eye, and also desirable for gaining wisdom, she took some and ate it. She also gave some to her husband, who was with her, and he ate it. [7] Then the eyes of both of them were opened, and they realized they were naked; so they sewed fig leaves together and made coverings for themselves. [8] Then the man and his wife heard the sound of the LORD God as he was walking in the garden in the cool of the day, and they hid from the LORD God among the trees of the garden. [9] But the LORD God called to the man, "Where are you?" [10] He answered, "I heard you in the garden, and I was afraid because I was naked; so I hid." [11] And he said, "Who told you that you were naked? Have you eaten from the tree that I commanded you not to eat from?" [12] The man said, "The woman you put here with me-- she gave me some fruit from the tree, and I ate it." [13] Then the LORD God said to the woman, "What is this you have done?" The woman said, "The serpent deceived me, and I ate." [14] So the LORD God said to the serpent, "Because you have done this, "Cursed are you above all the livestock and all the wild animals! You will crawl on your belly and you will eat dust all the days of your life. [15] And I will put enmity between you and the woman, and between your offspring and hers; he will crush your head, and you will strike his heel." [16] To the woman he said, "I will greatly increase your pains in childbearing; with pain you will give birth to children. Your desire will be for your husband, and he will rule over you." [17] To Adam he said, "Because you listened to your wife and ate from the tree about which I commanded you, 'You must not eat of it,' "Cursed is the ground because of you; through painful toil you will eat of it all the days of your life. [18] It will produce thorns and thistles for you, and you will eat the plants of the field. [19] By the sweat of your brow you will eat your food until you return to the ground, since from it you were taken; for dust you are and to dust you will return." [20] Adam named his wife Eve, because she would become the mother of all the living. [21] The LORD God made garments of skin for Adam and his wife and clothed them. [22] And the LORD God said, "The man has now become like one of us, knowing good and evil. He must not be allowed to reach out his hand and take also from the tree of life and eat, and live forever." [23] So the LORD God banished him from the Garden of Eden to work the ground from which he had been taken. [24] After he drove the man out, he placed on the east side of the Garden of Eden cherubim and a flaming sword flashing back and forth to guard the way to the tree of life. |
[1] Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Ðức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?
[2] Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn, [3] song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Ðức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đá-động đến, e khi hai ngươi phải chết chăng. [4] Rắn bèn nói với người nữ rằng: Hai ngươi chẳng chết đâu; [5] nhưng Ðức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Ðức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác. [6] Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa. [7] Ðoạn, mắt hai người đều mỡ ra, biết rằng mình lỏa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân. [8] Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời. [9] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời kêu A-đam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu? [10] A-đam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ, bởi vì tôi lỏa lồ, nên đi ẩn mình. [11] Ðức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng mình lỏa lồ? Ngươi có ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn đó chăng? [12] Thưa rằng: Người nữ mà Chúa đã để gần bên tôi cho tôi trái cây đó và tôi đã ăn rồi. [13] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán hỏi người nữ rằng: Người có làm điều chi vậy? Người nữ thưa rằng: Con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn rồi. [14] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. [15] Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người. [16] Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi. [17] Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. [18] Ðất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; [19] ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi. [20] A-đam gọi vợ là Ê-va, vì là mẹ của cả loài người. [21] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho. [22] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán rằng: Nầy, về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e loài người giơ tay khiến cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời chăng. [23] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen đặng cày cấy đất, là nơi có người ra. [24] Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống. |
Chapter 4
Chương 4
[1] Adam lay with his wife Eve, and she became pregnant and gave birth to Cain. She said, "With the help of the LORD I have brought forth a man."
[2] Later she gave birth to his brother Abel. Now Abel kept flocks, and Cain worked the soil. [3] In the course of time Cain brought some of the fruits of the soil as an offering to the LORD. [4] But Abel brought fat portions from some of the firstborn of his flock. The LORD looked with favor on Abel and his offering, [5] but on Cain and his offering he did not look with favor. So Cain was very angry, and his face was downcast. [6] Then the LORD said to Cain, "Why are you angry? Why is your face downcast? [7] If you do what is right, will you not be accepted? But if you do not do what is right, sin is crouching at your door; it desires to have you, but you must master it." [8] Now Cain said to his brother Abel, "Let's go out to the field." And while they were in the field, Cain attacked his brother Abel and killed him. [9] Then the LORD said to Cain, "Where is your brother Abel?" "I don't know," he replied. "Am I my brother's keeper?" [10] The LORD said, "What have you done? Listen! Your brother's blood cries out to me from the ground. [11] Now you are under a curse and driven from the ground, which opened its mouth to receive your brother's blood from your hand. [12] When you work the ground, it will no longer yield its crops for you. You will be a restless wanderer on the earth." [13] Cain said to the LORD, "My punishment is more than I can bear. [14] Today you are driving me from the land, and I will be hidden from your presence; I will be a restless wanderer on the earth, and whoever finds me will kill me." [15] But the LORD said to him, "Not so; if anyone kills Cain, he will suffer vengeance seven times over." Then the LORD put a mark on Cain so that no one who found him would kill him. [16] So Cain went out from the LORD's presence and lived in the land of Nod, east of Eden. [17] Cain lay with his wife, and she became pregnant and gave birth to Enoch. Cain was then building a city, and he named it after his son Enoch. [18] To Enoch was born Irad, and Irad was the father of Mehujael, and Mehujael was the father of Methushael, and Methushael was the father of Lamech. [19] Lamech married two women, one named Adah and the other Zillah. [20] Adah gave birth to Jabal; he was the father of those who live in tents and raise livestock. [21] His brother's name was Jubal; he was the father of all who play the harp and flute. [22] Zillah also had a son, Tubal-Cain, who forged all kinds of tools out of bronze and iron. Tubal-Cain's sister was Naamah. [23] Lamech said to his wives, "Adah and Zillah, listen to me; wives of Lamech, hear my words. I have killed a man for wounding me, a young man for injuring me. [24] If Cain is avenged seven times, then Lamech seventy-seven times." [25] Adam lay with his wife again, and she gave birth to a son and named him Seth, saying, "God has granted me another child in place of Abel, since Cain killed him." [26] Seth also had a son, and he named him Enosh. At that time men began to call on the name of the LORD. |
[1] A-đam ăn ở với Ê-va, là vợ mình; người thọ thai sanh Ca-in và nói rằng: Nhờ Ðức Giê-hô-va giúp đỡ, tôi mới sanh được một người.
[2] Ê-va lại sanh em Ca-in, là A-bên; A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in thì nghề làm ruộng. [3] Vả, cách ít lâu, Ca-in dùng thổ sản làm của lễ dâng cho Ðức Giê-hô-va. [4] A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Ðức Giê-hô-va đoái xem A-bên và nhận lễ vật của người; [5] nhưng chẳng đoái đến Ca-in và cũng chẳng nhận lễ vật của người; cho nên Ca-in giận lắm mà gằm nét mặt. [6] Ðức Giê-hô-va phán hỏi Ca-in rằng: Cớ sao ngươi giận, và cớ sao nét mặt ngươi gằm xuống? [7] Nếu ngươi làm lành, há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươi lắm; nhưng ngươi phải quản trị nó. [8] Ca-in thuật lại cùng A-bên là em mình. Vả, khi hai người đương ở ngoài đồng, thì Ca-in xông đến A-bên là em mình, và giết đi. [9] Ðức Giê-hô-va hỏi Ca-in rằng: A-bên, em ngươi, ở đâu? Thưa rằng: Tôi không biết; tôi là người giữ em tôi sao? [10] Ðức Giê-hô-va hỏi: Ngươi đã làm điều chi vậy? Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất kêu thấu đến ta. [11] Bây giờ, ngươi sẽ bị đất rủa sả, là đất đã hả miệng chịu hút máu của em ngươi bởi chính tay ngươi làm đổ ra. [12] Khi ngươi trồng tỉa, đất chẳng sanh hoa lợi cho ngươi nữa; ngươi sẽ lưu lạc và trốn tránh, trên mặt đất. [13] Ca-in thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Sự hình phạt tôi nặng quá mang không nổi. [14] Nầy, ngày nay, Chúa đã đuổi tôi ra khỏi đất nầy, tôi sẽ lánh mặt Chúa, sẽ đi lưu lạc trốn tránh trên đất; rồi, xảy có ai gặp tôi, họ sẽ giết đi. [15] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Bởi cớ ấy, nếu ai giết Ca-in, thì sẽ bị báo thù bảy lần. Ðức Giê-hô-va bèn đánh đấu trên mình Ca-in, hầu cho ai gặp Ca-in thì chẳng giết. [16] Ca-in bèn lui ra khỏi mặt Ðức Giê-hô-va, và ở tại xứ Nốt, về phía đông của Ê-đen. [17] Ðoạn, Ca-in ăn ở cùng vợ mình, nàng thọ thai và sanh được Hê-nóc; Ca-in xây một cái thành đặt tên là Hê-nóc, tùy theo tên con trai mình. [18] Rồi, Hê-nóc sanh Y-rát; Y-rát sanh Nê-hu-đa-ên; Nê-hu-đa-ên sanh Mê-tu-sa-ên; Mê-tu-sa-ên sanh Lê-méc. [19] Lê-méc cưới hai vợ; một người tên là A-đa, một người tên là Si-la. [20] A-đa sanh Gia-banh; Gia-banh là tổ phụ của các dân ở trại và nuôi bầy súc vật. [21] Em người là Giu-banh, tổ phụ của những kẻ đánh đờn và thổi sáo. [22] Còn Si-la cũng sanh Tu-banh-Ca-in là người rèn đủ thứ khí giới bén bằng đồng và bằng sắt. Em gái của Tu-banh-Ca-in là Na-a-ma. [23] Lê-méc bèn nói với hai vợ mình rằng: Hỡi A-đa và Si-la! hãy nghe tiếng ta; Nầy, vợ Lê-méc hãy lắng tai nghe lời ta: Ừ! Ta đã giết một người, vì làm thương ta, Và một người trẻ, vì đánh sưng bầm ta. [24] Nếu Ca-in được bảy lần báo thù, Lê-méc sẽ được bảy mươi bảy lần báo oán. [25] A-đam còn ăn ở với vợ mình; người sanh được một con trai đặt tên là Sết; vì vợ rằng: Ðức Chúa Trời đã cho tôi một con trai khác thế cho A-bên mà đã bị Ca-in giết rồi. [26] Sết cũng sanh được một con trai, đặt tên là Ê-nót. Từ đây, người ta bắt đầu cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va. |
Chapter 5
Chương 5
[1] This is the written account of Adam's line. When God created man, he made him in the likeness of God.
[2] He created them male and female and blessed them. And when they were created, he called them "man." [3] When Adam had lived 130 years, he had a son in his own likeness, in his own image; and he named him Seth. [4] After Seth was born, Adam lived 800 years and had other sons and daughters. [5] Altogether, Adam lived 930 years, and then he died. [6] When Seth had lived 105 years, he became the father of Enosh. [7] And after he became the father of Enosh, Seth lived 807 years and had other sons and daughters. [8] Altogether, Seth lived 912 years, and then he died. [9] When Enosh had lived 90 years, he became the father of Kenan. [10] And after he became the father of Kenan, Enosh lived 815 years and had other sons and daughters. [11] Altogether, Enosh lived 905 years, and then he died. [12] When Kenan had lived 70 years, he became the father of Mahalalel. [13] And after he became the father of Mahalalel, Kenan lived 840 years and had other sons and daughters. [14] Altogether, Kenan lived 910 years, and then he died. [15] When Mahalalel had lived 65 years, he became the father of Jared. [16] And after he became the father of Jared, Mahalalel lived 830 years and had other sons and daughters. [17] Altogether, Mahalalel lived 895 years, and then he died. [18] When Jared had lived 162 years, he became the father of Enoch. [19] And after he became the father of Enoch, Jared lived 800 years and had other sons and daughters. [20] Altogether, Jared lived 962 years, and then he died. [21] When Enoch had lived 65 years, he became the father of Methuselah. [22] And after he became the father of Methuselah, Enoch walked with God 300 years and had other sons and daughters. [23] Altogether, Enoch lived 365 years. [24] Enoch walked with God; then he was no more, because God took him away. [25] When Methuselah had lived 187 years, he became the father of Lamech. [26] And after he became the father of Lamech, Methuselah lived 782 years and had other sons and daughters. [27] Altogether, Methuselah lived 969 years, and then he died. [28] When Lamech had lived 182 years, he had a son. [29] He named him Noah and said, "He will comfort us in the labor and painful toil of our hands caused by the ground the LORD has cursed." [30] After Noah was born, Lamech lived 595 years and had other sons and daughters. [31] Altogether, Lamech lived 777 years, and then he died. [32] After Noah was 500 years old, he became the father of Shem, Ham and Japheth. |
[1] Ðây là sách chép dòng dõi của A-đam. Ngày mà Ðức Chúa Trời dựng nên loài người, thì người làm nên loài người giống như Ðức Chúa Trời;
[2] Ngài dựng nên người nam cùng người nữ, ban phước cho họ, và trong ngày đã dựng nên, đặt tên là người. [3] Vả, A-đam được một trăm ba mươi tuổi, sanh một con trai giống như hình tượng mình, đặt tên là Sết. [4] Sau khi A-đam sanh Sết rồi, còn sống được tám trăm năm, sanh con trai con gái. [5] Vậy, A-đam hưởng thọ được chín trăm ba mươi tuổi, rồi qua đời. [6] Sết được một trăm năm tuổi, sanh Ê-nót. [7] Sau khi Sết sanh Ê-nót rồi, còn sống được tám trăm bảy năm, sanh con trai con gái. [8] Vậy, Sết hưởng thọ được chín trăm mười hai tuổi, rồi qua đời. [9] Ê-nót được chín mươi tuổi, sanh Kê-nan. [10] Sau khi sanh Kê-nan rồi, còn sống được tám trăm mười lăm năm, sanh con trai con gái. [11] Vậy, Ê-nót hưởng thọ được chín trăm năm tuổi, rồi qua đời. [12] Kê-nan được bảy mươi tuổi, sanh Ma-ha-la-le. [13] Sau khi Kê-nan sanh Ma-ha-la-le rồi, còn sống được tám trăm bốn mươi năm, sanh con trai con gái. [14] Vậy, Kê-nan hưởng thọ được chín trăm mười tuổi, rồi qua đời. [15] Ma-ha-la-le được sáu mươi lăm tuổi, sanh Giê-rệt. [16] Sau khi Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt rồi, còn sống được tám trăm ba mươi năm, sanh con trai con gái. [17] Vậy, Ma-ha-la-le hưởng thọ được tám trăm chín mươi lăm tuổi, rồi qua đời. [18] Giê-rệt được một trăm sáu mươi hai tuổi, sanh Hê-nóc. [19] Sau khi Giê-rệt sanh Hê-nót rồi, còn sống được tám trăm năm, sanh con trai con gái. [20] Vậy, Giê-rệt hưởng thọ được chín trăm sáu mươi hai tuổi, rồi qua đời. [21] Hê-nóc được sáu mươi lăm tuổi, sanh Mê-tu-sê-la. [22] Sau khi Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la rồi, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời trong ba trăm năm, sanh con trai con gái. [23] Vậy Hê-nóc hưởng thọ được ban trăm sáu mươi lăm tuổi. [24] Hê-nóc đồng đi cùng Ðức Chúa Trời, rồi mất biệt, bởi vì Ðức Chúa Trời tiếp người đi. [25] Mê-tu-sê-la được một trăm tám mươi bảy tuổi, sanh Lê-méc. [26] Sau khi Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc rồi, còn sống được bảy trăm tám mươi hai năm, sanh con trai con gái. [27] Vậy, Mê-tu-sê-la hưởng thọ được chín trăm sáu mươi chín tuổi, rồi qua đời. [28] Lê-méc được một trăm tám mươi hai tuổi, sanh một trai, [29] Ðặt tên là Nô-ê, mà nói rằng: Ðứa nầy sẽ an ủy lòng ta về công việc và về sự nhọc nhằn mà đất bắt tay ta phải làm, là đất Ðức Giê-hô-va đã rủa sả. [30] Sau khi Lê-méc sanh Nô-ê rồi, còn sống được năm trăm chín mươi lăm năm, sanh con trai con gái. [31] Vậy, Lê-méc hưởng thọ được bảy trăm bảy mươi bảy tuổi, rồi qua đời. [32] Còn Nô-ê, khi đến năm trăm tuổi, sanh Sem Cham và Gia-phết. |
Chapter 6
Chương 6
[1] When men began to increase in number on the earth and daughters were born to them,
[2] the sons of God saw that the daughters of men were beautiful, and they married any of them they chose. [3] Then the LORD said, "My Spirit will not contend with man forever, for he is mortal; his days will be a hundred and twenty years." [4] The Nephilim were on the earth in those days-- and also afterward-- when the sons of God went to the daughters of men and had children by them. They were the heroes of old, men of renown. [5] The LORD saw how great man's wickedness on the earth had become, and that every inclination of the thoughts of his heart was only evil all the time. [6] The LORD was grieved that he had made man on the earth, and his heart was filled with pain. [7] So the LORD said, "I will wipe mankind, whom I have created, from the face of the earth-- men and animals, and creatures that move along the ground, and birds of the air-- for I am grieved that I have made them." [8] But Noah found favor in the eyes of the LORD. [9] This is the account of Noah. Noah was a righteous man, blameless among the people of his time, and he walked with God. [10] Noah had three sons: Shem, Ham and Japheth. [11] Now the earth was corrupt in God's sight and was full of violence. [12] God saw how corrupt the earth had become, for all the people on earth had corrupted their ways. [13] So God said to Noah, "I am going to put an end to all people, for the earth is filled with violence because of them. I am surely going to destroy both them and the earth. [14] So make yourself an ark of cypress wood; make rooms in it and coat it with pitch inside and out. [15] This is how you are to build it: The ark is to be 450 feet long, 75 feet wide and 45 feet high. [16] Make a roof for it and finish the ark to within 18 inches of the top. Put a door in the side of the ark and make lower, middle and upper decks. [17] I am going to bring floodwaters on the earth to destroy all life under the heavens, every creature that has the breath of life in it. Everything on earth will perish. [18] But I will establish my covenant with you, and you will enter the ark-- you and your sons and your wife and your sons' wives with you. [19] You are to bring into the ark two of all living creatures, male and female, to keep them alive with you. [20] Two of every kind of bird, of every kind of animal and of every kind of creature that moves along the ground will come to you to be kept alive. [21] You are to take every kind of food that is to be eaten and store it away as food for you and for them." [22] Noah did everything just as God commanded him. |
[1] Vả, khi loài người khởi thêm nhiều trên mặt đất, và khi loài người đã sanh được con gái rồi,
[2] các con trai của Ðức Chúa Trời thấy con gái loài người tốt đẹp, bèn cưới người nào vừa lòng mình mà làm vợ. [3] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn; trong điều lầm lạc, loài người chỉ là xác thịt; đời người sẽ là một trăm hai mươi năm mà thôi. [4] Ðời đó và đời sau, có người cao lớn trên mặt đất, vì con trai Ðức Chúa Trời ăn ở cùng con gái loài người mà sanh con cái; ấy những người mạnh dạn ngày xưa là tay anh hùng có danh. [5] Ðức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn; [6] thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu trong lòng. [7] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng nên, từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta tự trách đã dựng nên các loài đó. [8] Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Ðức Giê-hô-va. [9] Nầy là dòng dõi của Nô-ê. Nô-ê trong đời mình là một người công bình và toàn vẹn, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời. [10] Nô-ê sanh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết. [11] Thế gian bấy giờ đều bại hoại trước mặt Ðức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung ác. [12] Nầy, Ðức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy điều bại hoại, vì hết thảy xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại. [13] Ðức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta sẽ diệt-trừ họ cùng đất. [14] Ngươi hãy đóng một chiếc tàu bằng cây gô-phe, đóng có từng phòng, rồi trét chai bề trong cùng bề ngoài. [15] Vậy, hãy làm theo thế nầy: Bề dài tàu ba trăm thước, bề ngang năm mươi thước, bề cao ba mươi thước. [16] Trên tàu ngươi sẽ làm một cửa sổ, bề cao một thước, và chừa một cửa bên hông; ngươi sẽ làm một từng dưới, một từng giữa và một từng trên. [17] Còn ta đây, ta sẽ dẫn nước lụt khắp trên mặt đất, đặng diệt tuyệt các xác thịt có sanh khí ở dưới trời; hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ chết hết. [18] Nhưng ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của ngươi, đều hãy vào tàu. [19] Về các loài sanh vật, ngươi hãy dẫn xuống tàu mỗi loài một cặp, có đực có cái, có trống có mái, hầu cho ở cùng ngươi đặng giữ tròn sự sống; [20] chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng tùy theo loại, mỗi thứ hai con, sẽ đến cùng ngươi, để ngươi giữ tròn sự sống cho. [21] Lại, ngươi hãy lấy các thứ đồ ăn đem theo, đặng để dàng làm lương thực cho ngươi và các loài đó. [22] Nô-ê làm các điều nầy y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn. |
Chapter 7
Chương 7
[1] The LORD then said to Noah, "Go into the ark, you and your whole family, because I have found you righteous in this generation.
[2] Take with you seven of every kind of clean animal, a male and its mate, and two of every kind of unclean animal, a male and its mate, [3] and also seven of every kind of bird, male and female, to keep their various kinds alive throughout the earth. [4] Seven days from now I will send rain on the earth for forty days and forty nights, and I will wipe from the face of the earth every living creature I have made." [5] And Noah did all that the LORD commanded him. [6] Noah was six hundred years old when the floodwaters came on the earth. [7] And Noah and his sons and his wife and his sons' wives entered the ark to escape the waters of the flood. [8] Pairs of clean and unclean animals, of birds and of all creatures that move along the ground, [9] male and female, came to Noah and entered the ark, as God had commanded Noah. [10] And after the seven days the floodwaters came on the earth. [11] In the six hundredth year of Noah's life, on the seventeenth day of the second month-- on that day all the springs of the great deep burst forth, and the floodgates of the heavens were opened. [12] And rain fell on the earth forty days and forty nights. [13] On that very day Noah and his sons, Shem, Ham and Japheth, together with his wife and the wives of his three sons, entered the ark. [14] They had with them every wild animal according to its kind, all livestock according to their kinds, every creature that moves along the ground according to its kind and every bird according to its kind, everything with wings. [15] Pairs of all creatures that have the breath of life in them came to Noah and entered the ark. [16] The animals going in were male and female of every living thing, as God had commanded Noah. Then the LORD shut him in. [17] For forty days the flood kept coming on the earth, and as the waters increased they lifted the ark high above the earth. [18] The waters rose and increased greatly on the earth, and the ark floated on the surface of the water. [19] They rose greatly on the earth, and all the high mountains under the entire heavens were covered. [20] The waters rose and covered the mountains to a depth of more than twenty feet. [21] Every living thing that moved on the earth perished-- birds, livestock, wild animals, all the creatures that swarm over the earth, and all mankind. [22] Everything on dry land that had the breath of life in its nostrils died. [23] Every living thing on the face of the earth was wiped out; men and animals and the creatures that move along the ground and the birds of the air were wiped from the earth. Only Noah was left, and those with him in the ark. [24] The waters flooded the earth for a hundred and fifty days. |
[1] Ðức Giê-hô-va phán cùng Nô-ê rằng: Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu, vì về đời nầy ta thấy ngươi là công bình ở trước mặt ta.
[2] Trong các loài vật thanh sạch, hãy đem theo mỗi loài bảy cặp, đực và cái; còn loài vật không thanh sạch mỗi loài một cặp, đực và cái. [3] Cũng hãy đem theo những chim trời, mỗi thứ bảy cặp, trống và mái, để giữ giống ở trên khắp mặt đất. [4] Vì còn bảy ngày nữa, ta sẽ làm mưa xuống mặt đất, trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm; ta sẽ tuyệt diệt khỏi đất hết các loài của ta đã dựng nên. [5] Ðoạn, Nô-ê làm theo mọi điều Ðức Giê-hô-va đã phán dặn mình. [6] Vả, khi lụt xảy ra, và nước tràn trên mặt đất, thì Nô-ê đã được sáu trăm tuổi. [7] Vì cớ nước lụt, nên Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai và các dâu mình; [8] loài vật thanh sạch và loài vật không thanh sạch, loài chim, loài côn trùng trên mặt đất, [9] từng cặp, đực và cái, trống và mái, đều đến cùng Nô-ê mà vào tàu, y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn người. [10] Sau bảy ngày, nước lụt xảy có trên mặt đất. [11] Nhằm năm sáu trăm của đời Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy, chánh ngày đó, các nguồn của vực lớn nổ ra, và các đập trên trời mở xuống; [12] mưa sa trên mặt đất trọn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. [13] Lại cũng trong một ngày đó, Nô-ê với vợ, ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết, cùng ba dâu mình đồng vào tàu. [14] Họ và các loài, thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng trên mặt đất tùy theo loài, chim tùy theo loại, và hết thảy vật nào có cánh, [15] đều từng cặp theo Nô-ê vào tàu; nghĩa là mọi xác thịt nào có sanh khí, [16] một đực một cái, một trống một mái, đều đến vào tàu, y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn; đoạn, Ðức Giê-hô-va đóng cửa tàu lại. [17] Nước lụt phủ mặt đất bốn mươi ngày; nước dưng thêm nâng hỏng tàu lên khỏi mặt đất. [18] Trên mặt đất nước lớn và dưng thêm nhiều lắm; chiếc tàu nổi trên mặt nước. [19] Nước càng dưng lên bội phần trên mặt đất, hết thảy những ngọn núi cao ở dưới trời đều bị ngập. [20] Nước dưng lên mười lăm thước cao hơn, mấy ngọn núi đều ngập. [21] Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết ngột, nào chim, nào súc vật, nào thú rừng, nào côn trùng, và mọi người. [22] Các vật có sanh khí trong lỗ mũi, các vật ở trên đất liền đều chết hết. [23] Mọi loài ở trên mặt đất đều bị hủy diệt, từ loài người cho đến loài thú, loài côn trùng, cùng loài chim trời, chỉ còn Nô-ê và các loài ở với người trong tàu mà thôi. [24] Nước dưng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi ngày. |
Chapter 8
Chương 8
[1] But God remembered Noah and all the wild animals and the livestock that were with him in the ark, and he sent a wind over the earth, and the waters receded.
[2] Now the springs of the deep and the floodgates of the heavens had been closed, and the rain had stopped falling from the sky. [3] The water receded steadily from the earth. At the end of the hundred and fifty days the water had gone down, [4] and on the seventeenth day of the seventh month the ark came to rest on the mountains of Ararat. [5] The waters continued to recede until the tenth month, and on the first day of the tenth month the tops of the mountains became visible. [6] After forty days Noah opened the window he had made in the ark [7] and sent out a raven, and it kept flying back and forth until the water had dried up from the earth. [8] Then he sent out a dove to see if the water had receded from the surface of the ground. [9] But the dove could find no place to set its feet because there was water over all the surface of the earth; so it returned to Noah in the ark. He reached out his hand and took the dove and brought it back to himself in the ark. [10] He waited seven more days and again sent out the dove from the ark. [11] When the dove returned to him in the evening, there in its beak was a freshly plucked olive leaf! Then Noah knew that the water had receded from the earth. [12] He waited seven more days and sent the dove out again, but this time it did not return to him. [13] By the first day of the first month of Noah's six hundred and first year, the water had dried up from the earth. Noah then removed the covering from the ark and saw that the surface of the ground was dry. [14] By the twenty-seventh day of the second month the earth was completely dry. [15] Then God said to Noah, [16] "Come out of the ark, you and your wife and your sons and their wives. [17] Bring out every kind of living creature that is with you-- the birds, the animals, and all the creatures that move along the ground-- so they can multiply on the earth and be fruitful and increase in number upon it." [18] So Noah came out, together with his sons and his wife and his sons' wives. [19] All the animals and all the creatures that move along the ground and all the birds-- everything that moves on the earth-- came out of the ark, one kind after another. [20] Then Noah built an altar to the LORD and, taking some of all the clean animals and clean birds, he sacrificed burnt offerings on it. [21] The LORD smelled the pleasing aroma and said in his heart: "Never again will I curse the ground because of man, even though every inclination of his heart is evil from childhood. And never again will I destroy all living creatures, as I have done. [22] "As long as the earth endures, seedtime and harvest, cold and heat, summer and winter, day and night will never cease." |
[1] Vả, Ðức Chúa Trời nhớ lại Nô-ê cùng các loài thú và súc vật ở trong tàu với người, bèn khiến một trận gió thổi ngang qua trên đất, thì nước dừng lại.
[2] Các nguồn của vực lớn và các đập trên trời lấp ngăn lại; mưa trên trời không sa xuống nữa. [3] Nước giựt khỏi mặt đất, lần lần vừa hạ vừa giựt; trong một trăm năm mươi ngày nước mới bớt xuống. [4] Ðến tháng bảy, ngày mười bảy, chiếc tàu tấp trên núi A-ra-rát. [5] Nước cứ lần lần hạ cho đến tháng mười; ngày mồng một tháng đó, mấy đỉnh núi mới lộ ra. [6] Ðược bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ mình đã làm trên tàu, [7] thả một con quạ ra; quạ liệng đi liệng lại cho đến khi nước giựt khô trên mặt đất. [8] Người cũng thả một con bò câu ra, đặng xem thử nước hạ bớt trên mặt đất chưa. [9] Nhưng bò câu chẳng tìm được nơi nào đáp chơn xuống, bèn bay trở về trong tàu cùng người, vì nước còn khắp cả trên mặt đất. Nô-ê giơ tay bắt lấy bò câu, đem vào tàu lại với mình. [10] Ðoạn, người đợi bảy ngày nữa, lại thả bò câu ra khỏi tàu; [11] đến chiều bò câu về cùng người, và nầy, trong mỏ tha một lá Ô-li-ve tươi; Nô-ê hiểu rằng nước đã giảm bớt trên mặt đất. [12] Người đợi bảy ngày nữa, thả bò câu ra; nhưng chuyến nầy bò câu chẳng trở về cùng người nữa. [13] Nhằm năm sáu trăm một của đời Nô-ê, ngày mồng một, tháng giêng, nước đã giựt bày mặt đất khô; Nô-ê bèn giở mui tàu mà nhìn; nầy, mặt đất đã se. [14] Ðến tháng hai, ngày hai mươi bảy, đất đã khô rồi. [15] Ðức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: [16] Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ các con và các dâu ngươi. [17] Hãy thả ra với ngươi mọi vật sống của các xác thịt đã ở cùng ngươi: nào chim, nào thú, nào côn trùng bò trên đất, hầu cho chúng nó sanh sản, và thêm nhiều trên mặt đất. [18] Vậy, Nô-ê cùng vợ người, các con trai và các dâu người ra khỏi tàu. [19] Các thú, rắn, chim cùng mọi vật hành động trên mặt đất tùy theo giống đều ra khỏi tàu. [20] Nô-ê lập một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va. Người bắt các súc vật thanh sạch, các loài chim thanh sạch, bày của lễ thiêu dâng lên bàn thờ. [21] Ðức Giê-hô-va hưởng lấy mùi thơm và nghĩ thầm rằng: Ta chẳng vì loài người mà rủa sả đất nữa, vì tâm tánh loài người vẫn xấu xa từ khi còn tuổi trẻ; ta cũng sẽ chẳng hành các vật sống như ta đã làm. [22] Hễ đất còn, thì mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông, ngày và đêm, chẳng bao giờ tuyệt được. |
Chapter 9
Chương 9
[1] Then God blessed Noah and his sons, saying to them, "Be fruitful and increase in number and fill the earth.
[2] The fear and dread of you will fall upon all the beasts of the earth and all the birds of the air, upon every creature that moves along the ground, and upon all the fish of the sea; they are given into your hands. [3] Everything that lives and moves will be food for you. Just as I gave you the green plants, I now give you everything. [4] "But you must not eat meat that has its lifeblood still in it. [5] And for your lifeblood I will surely demand an accounting. I will demand an accounting from every animal. And from each man, too, I will demand an accounting for the life of his fellow man. [6] "Whoever sheds the blood of man, by man shall his blood be shed; for in the image of God has God made man. [7] As for you, be fruitful and increase in number; multiply on the earth and increase upon it." [8] Then God said to Noah and to his sons with him: [9] "I now establish my covenant with you and with your descendants after you [10] and with every living creature that was with you-- the birds, the livestock and all the wild animals, all those that came out of the ark with you-- every living creature on earth. [11] I establish my covenant with you: Never again will all life be cut off by the waters of a flood; never again will there be a flood to destroy the earth." [12] And God said, "This is the sign of the covenant I am making between me and you and every living creature with you, a covenant for all generations to come: [13] I have set my rainbow in the clouds, and it will be the sign of the covenant between me and the earth. [14] Whenever I bring clouds over the earth and the rainbow appears in the clouds, [15] I will remember my covenant between me and you and all living creatures of every kind. Never again will the waters become a flood to destroy all life. [16] Whenever the rainbow appears in the clouds, I will see it and remember the everlasting covenant between God and all living creatures of every kind on the earth." [17] So God said to Noah, "This is the sign of the covenant I have established between me and all life on the earth." [18] The sons of Noah who came out of the ark were Shem, Ham and Japheth. (Ham was the father of Canaan.) [19] These were the three sons of Noah, and from them came the people who were scattered over the earth. [20] Noah, a man of the soil, proceeded to plant a vineyard. [21] When he drank some of its wine, he became drunk and lay uncovered inside his tent. [22] Ham, the father of Canaan, saw his father's nakedness and told his two brothers outside. [23] But Shem and Japheth took a garment and laid it across their shoulders; then they walked in backward and covered their father's nakedness. Their faces were turned the other way so that they would not see their father's nakedness. [24] When Noah awoke from his wine and found out what his youngest son had done to him, [25] he said, "Cursed be Canaan! The lowest of slaves will he be to his brothers." [26] He also said, "Blessed be the LORD, the God of Shem! May Canaan be the slave of Shem. [27] May God extend the territory of Japheth; may Japheth live in the tents of Shem, and may Canaan be his slave." [28] After the flood Noah lived 350 years. [29] Altogether, Noah lived 950 years, and then he died. |
[1] Ðức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con trai người, mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất.
[2] Các loài vật ở trên đất, các loài chim trời, và các vật hành động trên đất, cùng các cá biển, đều sẽ kinh khủng ngươi và bị phú vào tay ngươi. [3] Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như ta đã cho thứ cỏ xanh. [4] Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu. [5] Quả thật, ta sẽ đòi máu của sự sống ngươi lại, hoặc nơi các loài thú vật, hoặc nơi tay người, hoặc nơi tay của anh em người. [6] Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại; vì Ðức Chúa Trời làm nên người như hình của Ngài. [7] Vậy, các ngươi hãy sanh sản, thêm nhiều, và làm cho đầy dẫy trên mặt đất. [8] Ðức Chúa Trời cũng phán cùng Nô-ê và các con trai người rằng: [9] Còn phần ta đây, ta lập giao ước cùng các ngươi, cùng dòng dõi các ngươi, [10] và cùng mọi vật sống ở với ngươi, nào loài chim, nào súc vật, nào loài thú ở trên đất, tức là các loài ở trong tàu ra, cho đến các loài vật ở trên đất. [11] Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa. [12] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi. [13] Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với đất. [14] Phàm lúc nào ta góp các đám mây trên mặt đất và phàm mống mọc trên từng mây, [15] thì ta sẽ nhớ lại sự giao ước của ta đã lập cùng các ngươi, và cùng các loài xác thịt có sự sống, thì nước chẳng bao giờ lại trở nên lụt mà hủy diệt các loài xác thịt nữa. [16] Vậy, cái mống sẽ ở trên mây, ta nhìn xem nó đặng nhớ lại sự giao ước đời đời của Ðức Chúa Trời cùng các loài xác thịt có sự sống ở trên đất. [17] Ðức Chúa Trời lại phán cùng Nô-ê rằng: Ðó là dấu chỉ sự giao ước mà ta đã lập giữa ta và các xác thịt ở trên mặt đất. [18] Các con trai của Nô-ê ở trong tàu ra là Sem, Cham và Gia-phết. Vả, Cham là cha của Ca-na-an. [19] Ấy đó, là ba con trai của Nô-ê, và cũng do nơi họ mà có loài người ở khắp trên mặt đất. [20] Vả, Nô-ê khởi cày đất và trồng nho. [21] Người uống rượu say, rồi lõa thể ở giữa trại mình. [22] Cham là cha Ca-na-an, thấy sự trần truồng của cha, thì ra ngoài thuật lại cùng hai anh em mình. [23] Nhưng Sem và Gia-phết đều lấy áo choàng vắt trên vai mình, đi thùi lui đến đắp khuất thân cho cha; và bởi họ xây mặt qua phía khác, nên chẳng thấy sự trần truồng của cha chút nào. [24] Khi Nô-ê tỉnh rượu rồi, hay được điều con thứ hai đã làm cho mình, [25] bèn nói rằng: Ca-na-an đáng rủa sả! Nó sẽ làm mọi cho các tôi tớ của anh em nó. [26] Người lại nói rằng: Ðáng ngợi khen Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Sem thay; Ca-na-an phải làm tôi cho họ! [27] Cầu xin Ðức Chúa Trời mở rộng đất cho Gia-phết, cho người ở nơi trại của Sem; còn Ca-na-an phải làm tôi của họ. [28] Sau khi lụt, Nô-ê còn sống ba trăm năm mươi năm. [29] Vậy, Nô-ê hưởng thọ được chín trăm năm mươi tuổi, rồi qua đời. |
Chapter 10
Chương 10
[1] This is the account of Shem, Ham and Japheth, Noah's sons, who themselves had sons after the flood.
[2] The sons of Japheth: Gomer, Magog, Madai, Javan, Tubal, Meshech and Tiras. [3] The sons of Gomer: Ashkenaz, Riphath and Togarmah. [4] The sons of Javan: Elishah, Tarshish, the Kittim and the Rodanim. [5] (From these the maritime peoples spread out into their territories by their clans within their nations, each with its own language.) [6] The sons of Ham: Cush, Mizraim, Put and Canaan. [7] The sons of Cush: Seba, Havilah, Sabtah, Raamah and Sabteca. The sons of Raamah: Sheba and Dedan. [8] Cush was the father of Nimrod, who grew to be a mighty warrior on the earth. [9] He was a mighty hunter before the LORD; that is why it is said, "Like Nimrod, a mighty hunter before the LORD." [10] The first centers of his kingdom were Babylon, Erech, Akkad and Calneh, in Shinar. [11] From that land he went to Assyria, where he built Nineveh, Rehoboth Ir, Calah [12] and Resen, which is between Nineveh and Calah; that is the great city. [13] Mizraim was the father of the Ludites, Anamites, Lehabites, Naphtuhites, [14] Pathrusites, Casluhites (from whom the Philistines came) and Caphtorites. [15] Canaan was the father of Sidon his firstborn, and of the Hittites, [16] Jebusites, Amorites, Girgashites, [17] Hivites, Arkites, Sinites, [18] Arvadites, Zemarites and Hamathites. Later the Canaanite clans scattered [19] and the borders of Canaan reached from Sidon toward Gerar as far as Gaza, and then toward Sodom, Gomorrah, Admah and Zeboiim, as far as Lasha. [20] These are the sons of Ham by their clans and languages, in their territories and nations. [21] Sons were also born to Shem, whose older brother was Japheth; Shem was the ancestor of all the sons of Eber. [22] The sons of Shem: Elam, Asshur, Arphaxad, Lud and Aram. [23] The sons of Aram: Uz, Hul, Gether and Meshech. [24] Arphaxad was the father of Shelah, and Shelah the father of Eber. [25] Two sons were born to Eber: One was named Peleg, because in his time the earth was divided; his brother was named Joktan. [26] Joktan was the father of Almodad, Sheleph, Hazarmaveth, Jerah, [27] Hadoram, Uzal, Diklah, [28] Obal, Abimael, Sheba, [29] Ophir, Havilah and Jobab. All these were sons of Joktan. [30] The region where they lived stretched from Mesha toward Sephar, in the eastern hill country. [31] These are the sons of Shem by their clans and languages, in their territories and nations. [32] These are the clans of Noah's sons, according to their lines of descent, within their nations. From these the nations spread out over the earth after the flood. |
[1] Ðây là dòng dõi của Sem, Cham và Gia-phết, ba con trai của Nô-ê; sau khi lụt, họ sanh con cái.
[2] Con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra. [3] Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-ga-ma. [4] Con trai của Gia-van là Ê-li-sa và Ta-rê-si, Kít-sim và Ðô-đa-nim. [5] Do họ mà có người ta ở tràn ra các cù lao của các dân, tùy theo xứ, tiếng nói, chi phái và dân tộc của họ mà chia ra. [6] Con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an. [7] Con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca; con trai của Ra-ê-ma là Sê-la và Ðê-đan. [8] Cúc sanh Nim-rốt, ấy là người bắt đầu làm anh hùng trên mặt đất. [9] Người là một tay thợ săn can đảm trước mặt Ðức Giê-hô-va. Bởi cớ đó, có tục ngữ rằng: Hệt như Nim-rốt, một tay thợ săn can đảm trước mặt Ðức Giê-hô-va! [10] Nước người sơ-lập là Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-ne ở tại xứ Si-nê-a. [11] Từ xứ đó người đến xứ A-si-ri, rồi lập thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bô-ti, Ca-lách, [12] Và thành Rê-sen, là thành rất lớn, ở giữa khoảng thành Ni-ni-ve và Ca-lách. [13] Mích-ra-im sanh họ Lu-đim, họ A-na-mim, họ Lê-ha-bim, họ Náp-tu-him, [14] họ Bát-ru-sim, họ Cách-lu-him (bởi đó sanh họ Phi-li-tin), và họ Cáp-tô-rim. [15] Ca-na-an sanh Si-đôn, là con trưởng nam, và Hếch, [16] cùng họ Giê-bu-sít, họ A-mô-rít, họ Ghi-rê-ga-sít, [17] họ Hê-vít, họ A-rê-kít, họ Si-nít, [18] họ A-va-đít, họ Xê-ma-rít, họ Ha-ma-tít. Kế đó, chi tộc Ca-na-an đi tản lạc. [19] Còn địa-phận Ca-na-an, về hướng Ghê-ra, chạy từ Si-đôn tới Ga-xa; về hướng Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im, chạy đến Lê-sa. [20] Ðó là con cháu của Cham, tùy theo họ hàng, tiếng nói, xứ và dân tộc của họ. [21] Sem, tổ phụ của họ Hê-be và anh cả của Gia-phết, cũng có sanh con trai. [22] Con trai của Sem là Ê-lam, A-sự-rơ, A-bác-sát, Lút và A-ram. [23] Con trai của A-ram là U-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mách. [24] Còn A-bác-sát sanh Sê-lách; Sê-lách sanh Hê-be, [25] Hê-be sanh được hai con trai; tên của một người là Bê-léc, vì đất trong đời người đó đã chia ra; trên của người em là Giốc-tan. [26] Giốc-tan sanh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết và Giê-rách, [27] Ha-đô-ram, U-xa, Ðiếc-la, [28] Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, [29] Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Hết thảy các người đó là con trai của Giốc-tan. [30] Cõi đất của các người đó ở về phía Sê-pha, chạy từ Mê-sa cho đến núi Ðông phương. [31] Ðó là con cháu của Sem, tùy theo họ hàng, tiếng nói, xứ và dân tộc của họ. [32] Ấy là các họ hàng của ba con trai Nô-ê tùy theo đời và dân tộc của họ; lại cũng do nơi họ mà các dân chia ra trên mặt đất sau cơn nước lụt. |
Chapter 11
Chương 11
[1] Now the whole world had one language and a common speech.
[2] As men moved eastward, they found a plain in Shinar and settled there. [3] They said to each other, "Come, let's make bricks and bake them thoroughly." They used brick instead of stone, and tar for mortar. [4] Then they said, "Come, let us build ourselves a city, with a tower that reaches to the heavens, so that we may make a name for ourselves and not be scattered over the face of the whole earth." [5] But the LORD came down to see the city and the tower that the men were building. [6] The LORD said, "If as one people speaking the same language they have begun to do this, then nothing they plan to do will be impossible for them. [7] Come, let us go down and confuse their language so they will not understand each other." [8] So the LORD scattered them from there over all the earth, and they stopped building the city. [9] That is why it was called Babel--because there the LORD confused the language of the whole world. From there the LORD scattered them over the face of the whole earth. [10] This is the account of Shem. Two years after the flood, when Shem was 100 years old, he became the father of Arphaxad. [11] And after he became the father of Arphaxad, Shem lived 500 years and had other sons and daughters. [12] When Arphaxad had lived 35 years, he became the father of Shelah. [13] And after he became the father of Shelah, Arphaxad lived 403 years and had other sons and daughters. [14] When Shelah had lived 30 years, he became the father of Eber. [15] And after he became the father of Eber, Shelah lived 403 years and had other sons and daughters. [16] When Eber had lived 34 years, he became the father of Peleg. [17] And after he became the father of Peleg, Eber lived 430 years and had other sons and daughters. [18] When Peleg had lived 30 years, he became the father of Reu. [19] And after he became the father of Reu, Peleg lived 209 years and had other sons and daughters. [20] When Reu had lived 32 years, he became the father of Serug. [21] And after he became the father of Serug, Reu lived 207 years and had other sons and daughters. [22] When Serug had lived 30 years, he became the father of Nahor. [23] And after he became the father of Nahor, Serug lived 200 years and had other sons and daughters. [24] When Nahor had lived 29 years, he became the father of Terah. [25] And after he became the father of Terah, Nahor lived 119 years and had other sons and daughters. [26] After Terah had lived 70 years, he became the father of Abram, Nahor and Haran. [27] This is the account of Terah. Terah became the father of Abram, Nahor and Haran. And Haran became the father of Lot. [28] While his father Terah was still alive, Haran died in Ur of the Chaldeans, in the land of his birth. [29] Abram and Nahor both married. The name of Abram's wife was Sarai, and the name of Nahor's wife was Milcah; she was the daughter of Haran, the father of both Milcah and Iscah. [30] Now Sarai was barren; she had no children. [31] Terah took his son Abram, his grandson Lot son of Haran, and his daughter-in-law Sarai, the wife of his son Abram, and together they set out from Ur of the Chaldeans to go to Canaan. But when they came to Haran, they settled there. [32] Terah lived 205 years, and he died in Haran. |
[1] Vả, cả thiên hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng.
[2] Nhưng khi ở Ðông phương dời đi, người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a, rồi ở tại đó. [3] Người nầy nói với người kia rằng: Hè! chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa. Lúc đó, gạch thế cho đá, còn chai thế cho hồ. [4] Lại nói rằng: Nào! chúng ta hãy xây một cái thành và dựng lên một cái tháp, chót cao đến tận trời; ta hãy lo làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp trên mặt đất. [5] Ðức Giê-hô-va bèn ngự xuống đặng xem cái thành và tháp của con cái loài người xây nên. [6] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một thứ tiếng; và kia kìa công việc chúng nó đương khởi làm; bây giờ chẳng còn chi ngăn chúng nó làm các điều đã quyết định được. [7] Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia. [8] Rồi, từ đó Ðức Giê-hô-va làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ thôi công việc xây cất thành. [9] Bởi cớ đó đặt tên thành là Ba-bên, vì nơi đó Ðức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng nói của cả thế gian, và từ đây Ngài làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất. [10] Ðây là dòng dõi của Sem: Cách hai năm, sau cơn nước lụt, Sem được một trăm tuổi, sanh A-bác-sát. [11] Sau khi Sem sanh A-bác-sát rồi, còn sống được năm trăm năm, sanh con trai con gái. [12] A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi, sanh Sê-lách. [13] Sau khi A-bác-sát sanh Sê-lách rồi, còn sống được bốn trăm ba năm, sanh con trai con gái. [14] Sê-lách được ba mươi tuổi, sanh Hê-be. [15] Sau khi Sê-lách sanh Hê-be rồi, còn sống được bốn trăm ba năm, sanh con trai con gái. [16] Hê-be được ba mươi bốn tuổi, sanh Bê-léc. [17] Sau khi Hê-be sanh Bê-léc rồi, còn sống được bốn trăm ba mươi năm, sanh con trai con gái. [18] Bê-léc được ba mươi tuổi, sanh Rê-hu [19] Sau khi Bê-léc sanh Rê-hu rồi, còn sống được hai trăm chín năm, sanh con trai con gái. [20] Rê-hu được ba mươi hai tuổi, sanh Sê-rúc. [21] Sau khi Rê-hu sanh Sê-rúc rồi, còn sống được hai trăm bảy năm, sanh con trai con gái. [22] Sê-rúc được ba mươi tuổi, sanh Na-cô. [23] Sau khi Sê-rúc sanh Na-cô rồi, còn sống được hai trăm năm, sanh con trai con gái. [24] Na-cô được hai mươi chín tuổi, sanh Tha-rê. [25] Sau khi Na-cô sanh Tha-rê rồi, còn sống được một trăm mười chín năm, sanh con trai con gái. [26] Còn Tha-rê được bảy mươi tuổi, sanh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran. [27] Ðây là dòng dõi của Tha-rê: Tha-rê sanh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran; Ha-ran sanh Lót. [28] Ha-ran qua đời tại quê hương mình, tức là U-ru, thuộc về xứ Canh-đê, khi cha người là Tha-rê hãy còn sống. [29] Áp-ram và Na-cô cưới vợ; vợ Áp-ram tên là Sa-rai, còn vợ Na-cô tên là Minh-ca; Minh-ca và Dích-ca tức là con gái của Ha-ran. [30] Vả, Sa-rai son sẻ, nên người không có con. [31] Tha-rê dẫn Áp-ram, con trai mình, Lót, con trai Ha-ran, cháu mình, và Sa-rai, vợ Áp-ram, tức dâu mình, đồng ra khỏi U-rơ, thuộc về xứ Canh-đê, đặng qua xứ Ca-na-an. Khi đến Cha-ran thì lập gia cư tại đó. [32] Tha-rê hưởng thọ được hai trăm năm tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran. |
Chapter 12
Chương 12
[1] The LORD had said to Abram, "Leave your country, your people and your father's household and go to the land I will show you.
[2] "I will make you into a great nation and I will bless you; I will make your name great, and you will be a blessing. [3] I will bless those who bless you, and whoever curses you I will curse; and all peoples on earth will be blessed through you." [4] So Abram left, as the LORD had told him; and Lot went with him. Abram was seventy-five years old when he set out from Haran. [5] He took his wife Sarai, his nephew Lot, all the possessions they had accumulated and the people they had acquired in Haran, and they set out for the land of Canaan, and they arrived there. [6] Abram traveled through the land as far as the site of the great tree of Moreh at Shechem. At that time the Canaanites were in the land. [7] The LORD appeared to Abram and said, "To your offspring I will give this land." So he built an altar there to the LORD, who had appeared to him. [8] From there he went on toward the hills east of Bethel and pitched his tent, with Bethel on the west and Ai on the east. There he built an altar to the LORD and called on the name of the LORD. [9] Then Abram set out and continued toward the Negev. [10] Now there was a famine in the land, and Abram went down to Egypt to live there for a while because the famine was severe. [11] As he was about to enter Egypt, he said to his wife Sarai, "I know what a beautiful woman you are. [12] When the Egyptians see you, they will say, 'This is his wife.' Then they will kill me but will let you live. [13] Say you are my sister, so that I will be treated well for your sake and my life will be spared because of you." [14] When Abram came to Egypt, the Egyptians saw that she was a very beautiful woman. [15] And when Pharaoh's officials saw her, they praised her to Pharaoh, and she was taken into his palace. [16] He treated Abram well for her sake, and Abram acquired sheep and cattle, male and female donkeys, menservants and maidservants, and camels. [17] But the LORD inflicted serious diseases on Pharaoh and his household because of Abram's wife Sarai. [18] So Pharaoh summoned Abram. "What have you done to me?" he said. "Why didn't you tell me she was your wife? [19] Why did you say, 'She is my sister,' so that I took her to be my wife? Now then, here is your wife. Take her and go!" [20] Then Pharaoh gave orders about Abram to his men, and they sent him on his way, with his wife and everything he had. |
[1] Vả, Ðức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
[2] Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. [3] Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước. [4] Rồi Áp-ram đi, theo như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dạy; Lót đồng đi với người. Khi Áp-ram ra khỏi Cha-ran, tuổi người được bảy mươi lăm. [5] Áp-ram dẫn Sa-rai, vợ mình, Lót, cháu mình, cả gia tài đã thâu góp, và các đầy tớ đã được tại Cha-ran, từ đó ra, để đi đến xứ Ca-na-an; rồi, chúng đều đến xứ Ca-na-an. [6] Áp-ram trải qua xứ nầy, đến cây dẻ bộp của Mô-rê, tại Si-chem. Vả, lúc đó, dân Ca-na-an ở tại xứ. [7] Ðức Giê-hô-va hiện ra cùng Áp-ram mà phán rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất nầy! Rồi tại đó Áp-ram lập một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va, là Ðấng đã hiện đến cùng người. [8] Từ đó, người đi qua núi ở về phía đông Bê-tên, rồi đóng trại; phía tây có Bê-tên, phía đông có A-hi. Ðoạn, người lập tại đó một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va và cầu khẩn danh Ngài. [9] Kế sau, Áp-ram vừa đi vừa đóng trại lần lần đến Nam phương. [10] Bấy giờ, trong xứ bị cơn đói kém; sự đói kém ấy lớn, nên Áp-ram xuống xứ Ê-díp-tô mà kiều ngụ. [11] Khi hầu vào đất Ê-díp-tô, Áp-ram bèn nói cùng Sa-rai, vợ mình, rằng: Nầy, ta biết ngươi là một người đờn bà đẹp. [12] Gặp khi nào dân Ê-díp-tô thấy ngươi, họ sẽ nói rằng: Ấy là vợ hắn đó; họ sẽ giết ta, nhưng để cho ngươi sống. [13] Ta xin hãy xưng ngươi là em gái ta, hầu cho sẽ vì ngươi mà ta được trọng đãi và giữ toàn mạng ta. [14] Áp-ram vừa đến xứ Ê-díp-tô, dân Ê-díp-tô nhìn thấy người đờn bà đó đẹp lắm. [15] Các triều thần của Pha-ra-ôn cùng thấy người và trằm-trồ trước mặt vua; đoạn người đờn bà bị dẫn vào cung Pha-ra-ôn. [16] Vì cớ người, nên Pha-ra-ôn hậu đãi Áp-ram, và Áp-ram được nhiều chiên, bò, lừa đực, lừa cái, lạc đà, tôi trai và tớ gái. [17] Song vì Sa-rai, vợ Áp-ram, nên Ðức Giê-hô-va hành phạt Pha-ra-ôn cùng nhà người bị tai họa lớn. [18] Pha-ra-ôn bèn đòi Áp-ram hỏi rằng: Ngươi đã làm chi cho ta vậy? Sao không tâu với ta rằng là vợ ngươi? [19] Sao đã nói rằng: người đó là em gái tôi? nên nỗi ta đã lấy nàng làm vợ. Bây giờ, vợ ngươi đây; hãy nhận lấy và đi đi. [20] Ðoạn, Pha-ra-ôn hạ lịnh cho quan quân đưa vợ chồng Áp-ram cùng hết thảy tài vật của người đi. |
Chapter 13
Chương 13
[1] So Abram went up from Egypt to the Negev, with his wife and everything he had, and Lot went with him.
[2] Abram had become very wealthy in livestock and in silver and gold. [3] From the Negev he went from place to place until he came to Bethel, to the place between Bethel and Ai where his tent had been earlier [4] and where he had first built an altar. There Abram called on the name of the LORD. [5] Now Lot, who was moving about with Abram, also had flocks and herds and tents. [6] But the land could not support them while they stayed together, for their possessions were so great that they were not able to stay together. [7] And quarreling arose between Abram's herdsmen and the herdsmen of Lot. The Canaanites and Perizzites were also living in the land at that time. [8] So Abram said to Lot, "Let's not have any quarreling between you and me, or between your herdsmen and mine, for we are brothers. [9] Is not the whole land before you? Let's part company. If you go to the left, I'll go to the right; if you go to the right, I'll go to the left." [10] Lot looked up and saw that the whole plain of the Jordan was well watered, like the garden of the LORD, like the land of Egypt, toward Zoar. (This was before the LORD destroyed Sodom and Gomorrah.) [11] So Lot chose for himself the whole plain of the Jordan and set out toward the east. The two men parted company: [12] Abram lived in the land of Canaan, while Lot lived among the cities of the plain and pitched his tents near Sodom. [13] Now the men of Sodom were wicked and were sinning greatly against the LORD. [14] The LORD said to Abram after Lot had parted from him, "Lift up your eyes from where you are and look north and south, east and west. [15] All the land that you see I will give to you and your offspring forever. [16] I will make your offspring like the dust of the earth, so that if anyone could count the dust, then your offspring could be counted. [17] Go, walk through the length and breadth of the land, for I am giving it to you." [18] So Abram moved his tents and went to live near the great trees of Mamre at Hebron, where he built an altar to the LORD. |
[1] Áp-ram ở Ê-díp-tô dẫn vợ cùng các tài vật mình và Lót đồng trở lên Nam phương.
[2] Vả, Áp-ram rất giàu có súc vật, vàng và bạc. [3] người vừa đi vừa đóng trại, từ Nam phương trở về Bê-tên và A-hi, [4] là nơi đã lập một bàn thờ lúc trước. Ở đó Áp-ram cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va. [5] Vả, Lót cùng đi với Áp-ram, cũng có chiên, bò, và trại. [6] Xứ đó không đủ chỗ cho hai người ở chung, vì tài vật rất nhiều cho đến đỗi không ở chung nhau được. [7] Trong khi dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít ở trong xứ, xảy có chuyện tranh giành của bọn chăn chiên Áp-ram cùng bọn chăn chiên Lót. [8] Áp-ram nói cùng Lót rằng: Chúng ta là cốt nhục, xin ngươi cùng ta chẳng nên cãi lẫy nhau và bọn chăn chiên ta cùng bọn chăn chiên ngươi cũng đừng tranh giành nhau nữa. [9] Toàn xứ há chẳng ở trước mặt ngươi sao? Vậy, hãy lìa khỏi ta; nếu ngươi lấy bên hữu, ta sẽ qua bên tả. [10] Lót bèn ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh, là nơi (trước khi Ðức Giê-hô-va chưa phá hủy thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ) thảy đều có nước chảy tưới khắp đến Xoa; đồng ó cũng như vườn của Ðức Giê-hô-va và như xứ Ê-díp-tô vậy. [11] Lót bèn chọn lấy cho mình hết cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh và đi qua phía Ðông. Vậy, hai người chia rẽ nhau. [12] Áp-ram ở trong xứ Ca-na-an, còn Lót ở trong thành của đồng bằng và dời trại mình đến Sô-đôm. [13] Vả, dân Sô-đôm là độc ác và kẻ phạm tội trọng cùng Ðức Giê-hô-va. [14] Sau khi Lót lìa khỏi Áp-ram rồi, Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hãy nhướng mắt lên, nhìn từ chỗ ngươi cho đến phương bắc, phương nam, phương đông và phương tây: [15] Vì cả xứ nào ngươi thấy, ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời. [16] Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì, nếu kẻ nào đếm đặng dòng dõi ngươi vậy. [17] Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ, bề dài và bề ngang; vì ta sẽ ban cho ngươi xứ nầy. [18] Ðoạn áp-ram đời trại mình đến ở nơi lùm cây dẻ bộp tại Mam-rê, thuộc về Hếp-rôn, và lập tại đó một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va. |
Chapter 14
Chương 14
[1] At this time Amraphel king of Shinar, Arioch king of Ellasar, Kedorlaomer king of Elam and Tidal king of Goiim
[2] went to war against Bera king of Sodom, Birsha king of Gomorrah, Shinab king of Admah, Shemeber king of Zeboiim, and the king of Bela (that is, Zoar). [3] All these latter kings joined forces in the Valley of Siddim (the Salt Sea). [4] For twelve years they had been subject to Kedorlaomer, but in the thirteenth year they rebelled. [5] In the fourteenth year, Kedorlaomer and the kings allied with him went out and defeated the Rephaites in Ashteroth Karnaim, the Zuzites in Ham, the Emites in Shaveh Kiriathaim [6] and the Horites in the hill country of Seir, as far as El Paran near the desert. [7] Then they turned back and went to En Mishpat (that is, Kadesh), and they conquered the whole territory of the Amalekites, as well as the Amorites who were living in Hazazon Tamar. [8] Then the king of Sodom, the king of Gomorrah, the king of Admah, the king of Zeboiim and the king of Bela (that is, Zoar) marched out and drew up their battle lines in the Valley of Siddim [9] against Kedorlaomer king of Elam, Tidal king of Goiim, Amraphel king of Shinar and Arioch king of Ellasar-- four kings against five. [10] Now the Valley of Siddim was full of tar pits, and when the kings of Sodom and Gomorrah fled, some of the men fell into them and the rest fled to the hills. [11] The four kings seized all the goods of Sodom and Gomorrah and all their food; then they went away. [12] They also carried off Abram's nephew Lot and his possessions, since he was living in Sodom. [13] One who had escaped came and reported this to Abram the Hebrew. Now Abram was living near the great trees of Mamre the Amorite, a brother of Eshcol and Aner, all of whom were allied with Abram. [14] When Abram heard that his relative had been taken captive, he called out the 318 trained men born in his household and went in pursuit as far as Dan. [15] During the night Abram divided his men to attack them and he routed them, pursuing them as far as Hobah, north of Damascus. [16] He recovered all the goods and brought back his relative Lot and his possessions, together with the women and the other people. [17] After Abram returned from defeating Kedorlaomer and the kings allied with him, the king of Sodom came out to meet him in the Valley of Shaveh (that is, the King's Valley). [18] Then Melchizedek king of Salem brought out bread and wine. He was priest of God Most High, [19] and he blessed Abram, saying, "Blessed be Abram by God Most High, Creator of heaven and earth. [20] And blessed be God Most High, who delivered your enemies into your hand." Then Abram gave him a tenth of everything. [21] The king of Sodom said to Abram, "Give me the people and keep the goods for yourself." [22] But Abram said to the king of Sodom, "I have raised my hand to the LORD, God Most High, Creator of heaven and earth, and have taken an oath [23] that I will accept nothing belonging to you, not even a thread or the thong of a sandal, so that you will never be able to say, 'I made Abram rich.' [24] I will accept nothing but what my men have eaten and the share that belongs to the men who went with me-- to Aner, Eshcol and Mamre. Let them have their share." |
[1] Trong đời Am-ra-phên, vua Si-nê-a; A-ri-óc, vua Ê-la-sa; Kết-rô-Lao me, vua Ê-lam, và Ti-đanh, vua Gô-im,
[2] bốn vua hiệp lại tranh chiến cùng Bê-ra, vua Sô-đôm; Bi-rê-sa, vua Gô-mô-rơ; Si-nê-áp, vua Át-ma; Sê-mê-bê, vua Xê-bô-im, và vua Bê-la, tức là Xoa. [3] Các vua nầy hiệp lại tại trũng Si-điêm, bây giờ là biển muối. [4] Trong mười hai năm các vua nầy đều là chư-hầu của vua Kết-rô-Lao me; nhưng qua năm thứ mười ba, thì họ dấy loạn. [5] Nhằm năm thứ mười bốn, Kết-rô-Lao-me cùng các vua đồng minh kéo quân đến dẹp dân Rê-pha-im ở đất Ách-tê-rót-Ca-na-im, dân Xu-xin tại đất Ham, dân Ê-mim ở trong đồng bằng Ki-ri-a-ta-im, [6] và dân Hô-rít tại núi Sê-i-rơ, cho đến nơi Ên-Ba-ran, ở gần đồng vắng. [7] Ðoạn, các vua thâu binh trở về, đến Suối Xử đoán, tức Ca-đe, hãm đánh khắp miền dân A-ma-léc, và dân A-mô-rít ở tại Hát-sát sôn-Tha-ma. [8] Các vua của Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma, Xê-bô-im và vua Bê-la, tức là Xoa, bèn xuất trận và dàn binh đóng tại trũng Si-điêm, [9] đặng chống cự cùng Kết-rô-Lao-me, vua Ê-lam; Ti-đanh, vua Gô-im; Am-ra-phên, vua Si-nê-a, và A-ri-óc, vua Ê-la-sa; bốn vị đương địch cùng năm. [10] Vả, trong trũng Si-điêm có nhiều hố nhựa chai; vua Sô-đôm và vua Gô-mô-rơ thua chạy, sa xuống hố, còn kẻ nào thoát được chạy trốn trên núi. [11] Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ, rồi đi. [12] Giặc cũng bắt Lót, là cháu của Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài người, rồi đem đi. [13] Có một người thoát được chạy đến báo điều đó cùng Áp-ram, là người Hê-bơ-rơ. Áp-ram ở tại lùm cây dẻ bộp của Mam-rê, là người A-mô-rít, anh của Ếch-côn và A-ne; ba người nầy đã có kết-ước cùng Áp-ram. [14] Khi Áp-ram hay được cháu mình bị quân giặc bắt, bèn chiêu tập ba trăm mười tám gia nhân đã tập luyện, sanh đẻ nơi nhà mình, mà đuổi theo các vua đó đến đất Ðan. [15] Ðoạn Áp-ram chia bọn đầy tớ mình ra, thừa ban đêm xông hãm quân nghịch, đánh đuổi theo đến đất Hô-ba ở về phía tả Ða-mách. [16] Người thâu về đủ hết các tài vật mà quân giặc đã cướp lấy; lại cũng dẫn cháu mình, là Lót cùng gia tài người, đờn bà và dân chúng trở về. [17] Sau khi Áp-ram đánh bại Kết-rô-Lao-me và các vua đồng minh, thắng trận trở về, thì vua Sô-đôm ra đón rước người tại trũng Sa-ve, tức là trũng Vua. [18] Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, sai đem bánh và rượu ra. Vả, vua nầy là thầy tế lễ của Ðức Chúa Trời Chí cao, [19] chúc phước cho Áp-ram và nói rằng: Nguyện Ðức Chúa Trời Chí cao, là Ðấng dựng nên trời và đất, ban phước cho Áp-ram! [20] Ðáng ngợi khen thay Ðức Chúa Trời Chí cao đã phó kẻ thù nghịch vào tay ngươi! Ðoạn, Áp-ram lấy một phần mười về cả của giặc mà dâng cho vua đó. [21] Vua Sô-đôm bèn nói cùng Áp-ram rằng: Hãy giao người cho ta, còn của cải, thì ngươi thâu lấy. [22] Áp-ram đáp lại rằng: Tôi giơ tay lên trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời Chí cao, Chúa Tể của trời và đất, mà thề rằng: [23] Hễ của chi thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói được rằng: Nhờ ta làm cho Áp-ram giàu có, [24] chỉ món chi của những người trẻ đã ăn, và phần của các người cùng đi với tôi, là A-ne, Ếch-côn và Mam-rê; về phần họ, họ hãy lấy phần của họ đi. |
Chapter 15
Chương 15
[1] After this, the word of the LORD came to Abram in a vision: "Do not be afraid, Abram. I am your shield, your very great reward."
[2] But Abram said, "O Sovereign LORD, what can you give me since I remain childless and the one who will inherit my estate is Eliezer of Damascus?" [3] And Abram said, "You have given me no children; so a servant in my household will be my heir." [4] Then the word of the LORD came to him: "This man will not be your heir, but a son coming from your own body will be your heir." [5] He took him outside and said, "Look up at the heavens and count the stars-- if indeed you can count them." Then he said to him, "So shall your offspring be." [6] Abram believed the LORD, and he credited it to him as righteousness. [7] He also said to him, "I am the LORD, who brought you out of Ur of the Chaldeans to give you this land to take possession of it." [8] But Abram said, "O Sovereign LORD, how can I know that I will gain possession of it?" [9] So the LORD said to him, "Bring me a heifer, a goat and a ram, each three years old, along with a dove and a young pigeon." [10] Abram brought all these to him, cut them in two and arranged the halves opposite each other; the birds, however, he did not cut in half. [11] Then birds of prey came down on the carcasses, but Abram drove them away. [12] As the sun was setting, Abram fell into a deep sleep, and a thick and dreadful darkness came over him. [13] Then the LORD said to him, "Know for certain that your descendants will be strangers in a country not their own, and they will be enslaved and mistreated four hundred years. [14] But I will punish the nation they serve as slaves, and afterward they will come out with great possessions. [15] You, however, will go to your fathers in peace and be buried at a good old age. [16] In the fourth generation your descendants will come back here, for the sin of the Amorites has not yet reached its full measure." [17] When the sun had set and darkness had fallen, a smoking firepot with a blazing torch appeared and passed between the pieces. [18] On that day the LORD made a covenant with Abram and said, "To your descendants I give this land, from the river of Egypt to the great river, the Euphrates-- [19] the land of the Kenites, Kenizzites, Kadmonites, [20] Hittites, Perizzites, Rephaites, [21] Amorites, Canaanites, Girgashites and Jebusites." |
[1] Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.
[2] Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Ða-mách. [3] Áp-ram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt-tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. [4] Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Áp-ram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. [5] Ðoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. [6] Áp-ram tin Ðức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người. [7] Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Áp-ram rằng: Ta là Ðức Giê-hô-va, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi U-rơ, thuộc về xứ Canh-đê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp. [8] Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, bởi cớ chi tôi biết rằng tôi sẽ được xứ nầy làm sản nghiệp? [9] Ðức Giê-hô-va đáp rằng: Ngươi hãy bắt đem cho ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu rừng và một con bò câu con. [10] Áp-ram bắt đủ các loài vật đó, mổ làm hai, để mỗi nửa con mỗi bên đối với nhau, nhưng không mổ các loài chim ra làm hai. [11] Có những chim ăn mồi bay đáp trên mấy con thú chết đó, song Áp-ram đuổi nó đi. [12] Vả, khi mặt trời vừa lặn, thì Áp-ram ngủ mê; nầy một cơn kinh hãi, tối tăm nhập vào mình người. [13] Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Phải biết rằng, dòng dõi ngươi sẽ ngụ trong một xứ chẳng thuộc về chúng nó, làm tôi mọi cho dân xứ đó và bị họ hà hiếp bốn trăm năm. [14] Nhưng, ta sẽ đoán phạt dân mà dòng dõi ngươi sẽ làm tôi mọi đó; rồi khi ra khỏi xứ, thì sẽ được của cải rất nhiều. [15] Còn ngươi sẽ bình yên về nơi tổ phụ, hưởng lộc già sung sướng, rồi qua đời. [16] Ðến đời thứ tư, dòng dõi ngươi sẽ trở lại đây, vì tội lỗi của dân A-mô-rít chưa được đầy dẫy. [17] Khi mặt trời đã lặn, thình lình sự tối mịt giáng xuống; kìa có một lò lớn khói lên, và một ngọn lửa lòe ngang qua các xác thịt đã mổ, [18] Ngày đó, Ðức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát, [19] là xứ của các dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít [20] Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, [21] A-mô-nít, Ca-na-an, Ghi-ê-ga-sít và Giê-bu-sít. |
Chapter 16
Chương 16
[1] Now Sarai, Abram's wife, had borne him no children. But she had an Egyptian maidservant named Hagar;
[2] so she said to Abram, "The LORD has kept me from having children. Go, sleep with my maidservant; perhaps I can build a family through her." Abram agreed to what Sarai said. [3] So after Abram had been living in Canaan ten years, Sarai his wife took her Egyptian maidservant Hagar and gave her to her husband to be his wife. [4] He slept with Hagar, and she conceived. When she knew she was pregnant, she began to despise her mistress. [5] Then Sarai said to Abram, "You are responsible for the wrong I am suffering. I put my servant in your arms, and now that she knows she is pregnant, she despises me. May the LORD judge between you and me." [6] "Your servant is in your hands," Abram said. "Do with her whatever you think best." Then Sarai mistreated Hagar; so she fled from her. [7] The angel of the LORD found Hagar near a spring in the desert; it was the spring that is beside the road to Shur. [8] And he said, "Hagar, servant of Sarai, where have you come from, and where are you going?" "I'm running away from my mistress Sarai," she answered. [9] Then the angel of the LORD told her, "Go back to your mistress and submit to her." [10] The angel added, "I will so increase your descendants that they will be too numerous to count." [11] The angel of the LORD also said to her: "You are now with child and you will have a son. You shall name him Ishmael, for the LORD has heard of your misery. [12] He will be a wild donkey of a man; his hand will be against everyone and everyone's hand against him, and he will live in hostility toward all his brothers." [13] She gave this name to the LORD who spoke to her: "You are the God who sees me," for she said, "I have now seen the One who sees me." [14] That is why the well was called Beer Lahai Roi; it is still there, between Kadesh and Bered. [15] So Hagar bore Abram a son, and Abram gave the name Ishmael to the son she had borne. [16] Abram was eighty-six years old when Hagar bore him Ishmael. |
[1] Vả, Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô, tên là A-ga.
[2] Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Ðức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng. Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai. [3] Sau khi Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại xứ Ca-na-an, Sa-rai, vợ người, bắt A-ga, là con đòi Ê-díp-tô mình, đưa cho chồng làm hầu. [4] Người lại cùng con đòi, thì nàng thọ thai. Khi con đòi thấy mình thọ thai, thì khinh bỉ bà chủ mình. [5] Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Ðiều sỉ nhục mà tôi bị đây đổ lại trên ông. Tôi đã phú con đòi tôi vào lòng ông, mà từ khi nó thấy mình thọ thai, thì lại khinh tôi. Cầu Ðức Giê-hô-va xét đoán giữa tôi với ông. [6] Áp-ram đáp cùng Sa-rai rằng: Nầy, con đòi đó ở trong tay ngươi, phân xử thể nào, mặc ý ngươi cho vừa dạ. Ðoạn Sa-rai hành hạ A-ga, thì nàng trốn đi khỏi mặt người. [7] Nhưng thiên sứ của Ðức Giê-hô-va thấy nàng ở trong đồng vắng gần bên suối nước, nơi mé đường đi và Su-rơ, [8] thì hỏi rằng: Hỡi A-ga, đòi của Sa-rai, ngươi ở đâu đến, và sẽ đi đâu? Nàng thưa rằng: Tôi lánh xa mặt Sa-rai, chủ tôi. [9] Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va dạy nàng rằng: Ngươi hãy trở về chủ ngươi, và chịu lụy dưới tay người. [10] Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va lại phán rằng: Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều, đông đảo đến đỗi người ta đếm không đặng nữa. [11] Lại phán rằng: Nầy, ngươi đương có thai, sẽ sanh một trai, đặt tên là Ích-ma-ên; vì Ðức Giê-hô-va có nghe sự sầu khổ của ngươi. [12] Ðứa trẻ đó sẽ như một con lừa rừng; tay nó sẽ địch cùng mọi người, và tay mọi người sẽ địch lại nó. Nó sẽ ở về phía đông đối mặt cùng hết thảy anh em mình. [13] Nàng gọi Ðức Giê-hô-va mà đã phán cùng mình, danh là "Ðức Chúa Trời hay đoái xem," vì nàng nói rằng: Chính tại đây, tôi há chẳng có thấy được Ðắng đoái xem tôi sao? [14] Bởi cớ ấy, người ta gọi cái giếng nầy ở về giữa khoảng của Ca-đe và Bê-re, là giếng La-chai-Roi. [15] Rồi nàng A-ga sanh được một con trai; Áp-ram đặt tên đứa trai đó là Ích-ma-ên. [16] Vả lại, khi A-ga sanh Ích-ma-ên cho Áp-ram, thì Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi. |
Chapter 17
Chương 17
[1] When Abram was ninety-nine years old, the LORD appeared to him and said, "I am God Almighty; walk before me and be blameless.
[2] I will confirm my covenant between me and you and will greatly increase your numbers." [3] Abram fell facedown, and God said to him, [4] "As for me, this is my covenant with you: You will be the father of many nations. [5] No longer will you be called Abram; your name will be Abraham, for I have made you a father of many nations. [6] I will make you very fruitful; I will make nations of you, and kings will come from you. [7] I will establish my covenant as an everlasting covenant between me and you and your descendants after you for the generations to come, to be your God and the God of your descendants after you. [8] The whole land of Canaan, where you are now an alien, I will give as an everlasting possession to you and your descendants after you; and I will be their God." [9] Then God said to Abraham, "As for you, you must keep my covenant, you and your descendants after you for the generations to come. [10] This is my covenant with you and your descendants after you, the covenant you are to keep: Every male among you shall be circumcised. [11] You are to undergo circumcision, and it will be the sign of the covenant between me and you. [12] For the generations to come every male among you who is eight days old must be circumcised, including those born in your household or bought with money from a foreigner-- those who are not your offspring. [13] Whether born in your household or bought with your money, they must be circumcised. My covenant in your flesh is to be an everlasting covenant. [14] Any uncircumcised male, who has not been circumcised in the flesh, will be cut off from his people; he has broken my covenant." [15] God also said to Abraham, "As for Sarai your wife, you are no longer to call her Sarai; her name will be Sarah. [16] I will bless her and will surely give you a son by her. I will bless her so that she will be the mother of nations; kings of peoples will come from her." [17] Abraham fell facedown; he laughed and said to himself, "Will a son be born to a man a hundred years old? Will Sarah bear a child at the age of ninety?" [18] And Abraham said to God, "If only Ishmael might live under your blessing!" [19] Then God said, "Yes, but your wife Sarah will bear you a son, and you will call him Isaac. I will establish my covenant with him as an everlasting covenant for his descendants after him. [20] And as for Ishmael, I have heard you: I will surely bless him; I will make him fruitful and will greatly increase his numbers. He will be the father of twelve rulers, and I will make him into a great nation. [21] But my covenant I will establish with Isaac, whom Sarah will bear to you by this time next year." [22] When he had finished speaking with Abraham, God went up from him. [23] On that very day Abraham took his son Ishmael and all those born in his household or bought with his money, every male in his household, and circumcised them, as God told him. [24] Abraham was ninety-nine years old when he was circumcised, [25] and his son Ishmael was thirteen; [26] Abraham and his son Ishmael were both circumcised on that same day. [27] And every male in Abraham's household, including those born in his household or bought from a foreigner, was circumcised with him. |
[1] Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, thì Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy đi ở trước mặt ta làm một người trọn vẹn.
[2] Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, làm cho dòng dõi ngươi thêm nhiều quá-bội. [3] Áp-ram bèn sấp mình xuống đất; Ðức Chúa Trời phán cùng người rằng: [4] Nầy, phần ta đây, ta đã lập giao ước cùng ngươi; vậy ngươi sẽ trở nên tổ phụ của nhiều dân tộc. [5] Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Áp-ram nữa, nhưng tên ngươi là Áp-ra-ham, vì ta đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc. [6] Ta sẽ làm cho ngươi sanh sản rất nhiều, làm cho ngươi thành nhiều nước; và các vua sẽ do nơi ngươi mà ra. [7] Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho ta làm Ðức Chúa Trời của ngươi và của dòng dõi ngươi. [8] Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời. Vậy, ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của họ. [9] Ðoạn, Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: Phần ngươi cùng dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, sẽ giữ sự giao ước của ta. [10] Mỗi người nam trong vòng các ngươi phải chịu phép cắt bì; ấy là giao ước mà các ngươi phải giữ, tức giao ước lập giữa ta và các ngươi, cùng dòng dõi sau ngươi. [11] Các ngươi phải chịu cắt bì; phép đó sẽ là dấu hiệu của sự giao ước giữa ta cùng các ngươi. [12] Trải qua các đời, mỗi người nam trong vòng các ngươi, hoặc sanh đẻ tại nhà, hoặc đem tiền ra mua nơi người ngoại bang, chẳng thuộc về dòng giống ngươi, hễ lên được tám ngày rồi, đều phải chịu phép cắt bì. [13] Chớ khá bỏ làm phép cắt bì cho ai sanh tại trong nhà ngươi, hay đem tiền ra mua về; sự giao ước của ta sẽ lập đời đời trong xác thịt của các ngươi vậy. [14] Một người nam nào không chịu phép cắt bì nơi xác thịt mình, sẽ bị truất ra khỏi ngoài dân sự mình; người đó là kẻ bội lời giao ước ta. [15] Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: còn Sa-rai, vợ ngươi, chớ gọi là Sa-rai nữa; nhưng Sa-ra là tên người đó. [16] Ta sẽ ban phước cho nàng, lại do nơi nàng ta sẽ cho ngươi một con trai, Ta sẽ ban phước cho nàng, nàng sẽ làm mẹ các dân tộc; những vua của các dân tộc sẽ do nơi nàng mà ra. [17] Áp-ra-ham bèn sấp mình xuống đất, cười và nói thầm rằng: Hồ dễ người đã trăm tuổi rồi, mà sanh con được chăng? Còn Sa-ra, tuổi đã chín mươi, sẽ sanh sản được sao? [18] Áp-ra-ham thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Chớ chi Ích-ma-ên vẫn được sống trước mặt Ngài! [19] Ðức Chúa Trời bèn phán rằng: Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, rồi ngươi đặt tên là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước cùng nó, để làm giao ước đời đời cho dòng dõi của nó. [20] Ta cũng nhậm lời ngươi xin cho Ích-ma-ên. Nầy, ta ban phước cho người, sẽ làm cho người sanh sản và thêm nhiều quá-bội; người sẽ là tổ phụ của mười hai vị công-hầu, và ta làm cho người thành một dân lớn. [21] Nhưng ta sẽ lập giao ước ta cùng Y-sác, độ khoảng nầy năm tới Sa-ra phải sanh cho ngươi. [22] Khi Ðức Chúa Trời đã phán xong, thì Ngài từ Áp-ra-ham ngự lên. [23] Chánh ngày đó, Áp-ra-ham bắt Ích-ma-ên, con trai mình, và hết thảy các người nam trong nhà, hoặc sanh tại đó, hoặc đem tiền ra mua về, mà làm phép cắt bì cho, y như lời Ðức Chúa Trời đã phải dặn. [24] Vả, khi Áp-ra-ham chịu phép cắt bì, thì đã được chín mươi chín tuổi; [25] còn Ích-ma-ên, con người, khi chịu phép cắt bì, thì được mười ba tuổi. [26] Cũng trong một ngày đó, Áp-ra-ham và Ích-ma-ên chịu phép cắt bì, [27] và mọi người nam trong nhà, hoặc sanh tại đó, hoặc đem tiền ra mua nơi người ngoại bang, đồng chịu phép cắt bì với người. |
Chapter 18
Chương 18
[1] The LORD appeared to Abraham near the great trees of Mamre while he was sitting at the entrance to his tent in the heat of the day.
[2] Abraham looked up and saw three men standing nearby. When he saw them, he hurried from the entrance of his tent to meet them and bowed low to the ground. [3] He said, "If I have found favor in your eyes, my lord, do not pass your servant by. [4] Let a little water be brought, and then you may all wash your feet and rest under this tree. [5] Let me get you something to eat, so you can be refreshed and then go on your way-- now that you have come to your servant." "Very well," they answered, "do as you say." [6] So Abraham hurried into the tent to Sarah. "Quick," he said, "get three seahs of fine flour and knead it and bake some bread." [7] Then he ran to the herd and selected a choice, tender calf and gave it to a servant, who hurried to prepare it. [8] He then brought some curds and milk and the calf that had been prepared, and set these before them. While they ate, he stood near them under a tree. [9] "Where is your wife Sarah?" they asked him. "There, in the tent," he said. [10] Then the LORD said, "I will surely return to you about this time next year, and Sarah your wife will have a son." Now Sarah was listening at the entrance to the tent, which was behind him. [11] Abraham and Sarah were already old and well advanced in years, and Sarah was past the age of childbearing. [12] So Sarah laughed to herself as she thought, "After I am worn out and my master is old, will I now have this pleasure?" [13] Then the LORD said to Abraham, "Why did Sarah laugh and say, 'Will I really have a child, now that I am old?' [14] Is anything too hard for the LORD? I will return to you at the appointed time next year and Sarah will have a son." [15] Sarah was afraid, so she lied and said, "I did not laugh." But he said, "Yes, you did laugh." [16] When the men got up to leave, they looked down toward Sodom, and Abraham walked along with them to see them on their way. [17] Then the LORD said, "Shall I hide from Abraham what I am about to do? [18] Abraham will surely become a great and powerful nation, and all nations on earth will be blessed through him. [19] For I have chosen him, so that he will direct his children and his household after him to keep the way of the LORD by doing what is right and just, so that the LORD will bring about for Abraham what he has promised him." [20] Then the LORD said, "The outcry against Sodom and Gomorrah is so great and their sin so grievous [21] that I will go down and see if what they have done is as bad as the outcry that has reached me. If not, I will know." [22] The men turned away and went toward Sodom, but Abraham remained standing before the LORD. [23] Then Abraham approached him and said: "Will you sweep away the righteous with the wicked? [24] What if there are fifty righteous people in the city? Will you really sweep it away and not spare the place for the sake of the fifty righteous people in it? [25] Far be it from you to do such a thing-- to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. Far be it from you! Will not the Judge of all the earth do right?" [26] The LORD said, "If I find fifty righteous people in the city of Sodom, I will spare the whole place for their sake." [27] Then Abraham spoke up again: "Now that I have been so bold as to speak to the Lord, though I am nothing but dust and ashes, [28] what if the number of the righteous is five less than fifty? Will you destroy the whole city because of five people?" "If I find forty-five there," he said, "I will not destroy it." [29] Once again he spoke to him, "What if only forty are found there?" He said, "For the sake of forty, I will not do it." [30] Then he said, "May the Lord not be angry, but let me speak. What if only thirty can be found there?" He answered, "I will not do it if I find thirty there." [31] Abraham said, "Now that I have been so bold as to speak to the Lord, what if only twenty can be found there?" He said, "For the sake of twenty, I will not destroy it." [32] Then he said, "May the Lord not be angry, but let me speak just once more. What if only ten can be found there?" He answered, "For the sake of ten, I will not destroy it." [33] When the LORD had finished speaking with Abraham, he left, and Abraham returned home. |
[1] Ðức Giê-hô-va hiện ra cùng Áp-ra-ham nơi lùm cây dẻ bộp của Mam-rê, đương khi ngồi nơi cửa trại lúc trời nắng ban ngày.
[2] Áp-ra-ham nhướng mắt lên, thấy ba người đứng trước mặt. Vừa khi thấy, bèn bắt từ cửa trại chạy đến trước mặt ba người đó, sấp mình xuống đất, [3] và thưa rằng: Lạy Chúa, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin hãy ghé lại nhà kẻ tôi tớ Chúa, đừng bỏ đi luôn. [4] Xin các đấng hãy cho phép người ta lấy chút nước rửa chơn các đấng, và xin hãy nằm nghỉ mát dưới cội cây nầy. [5] Tôi sẽ đi đem một miếng bánh cho các đấng ăn vững lòng, rồi sẽ dời gót lên đường; vì cớ ấy, nên mới quá bộ lại nhà kẻ tôi tớ các đấng vậy. Các đấng phán rằng: Hãy cứ việc làm như ngươi đã nói. [6] Ðoạn, Áp-ra-ham lật đật vào trại đến cùng Sa-ra mà rằng: Hãy mau mau lấy ba đấu bột lọc nhồi đi, rồi làm bánh nhỏ. [7] Áp-ra-ham bèn chạy lại bầy, bắt một con bò con ngon, giao cho đầy tớ mau mau nấu dọn; [8] rồi lấy mỡ-sữa và sữa cùng con bò con đã nấu xong, dọn ngay trước mặt các đấng; còn người thì đứng hầu trước mặt, dưới cội cây. Vậy các đấng đó bèn ăn. [9] Các đấng hỏi Áp-ra-ham rằng: Sa-ra, vợ ngươi, ở đâu? Ðáp rằng: Kìa, nàng ở trong trại kia. [10] Một đấng nói rằng: Trong độ một năm nữa, ta sẽ trở lại đây với ngươi không sai, và chừng đó, Sa-ra, vợ ngươi, sẽ có một con trai. Sa-ra ở nơi cửa trại sau lưng đấng đó, nghe các lời nầy. [11] Vả, Áp-ra-ham cùng Sa-ra đã già, tuổi tác đã cao; Sa-ra không còn chi nữa như thế thường người đờn bà. [12] Sa-ra cười thầm mà rằng: Già như tôi thế nầy, dễ còn được điều vui đó sao? Còn chúa tôi cũng đã già rồi! [13] Ðức Giê-hô-va phán hỏi Áp-ra-ham rằng: Cớ sao Sa-ra cười như vậy mà rằng: Có quả thật rằng tôi già đến thế nầy lại còn sanh sản chăng? [14] Há điều chi Ðức Giê-hô-va làm không được chăng? Ðến kỳ đã định, trong một năm nữa, ta sẽ trở lại cùng ngươi, và Sa-ra sẽ có một con trai. [15] Vì Sa-ra sợ, nên chối mà thưa rằng: Tôi có cười đâu! Nhưng Ngài phán rằng: Thật ngươi có cười đó! [16] Các đấng đều đứng dậy mà đi, ngó về phía, Sô-đôm. Áp-ra-ham cũng theo để tiễn bước các đấng. [17] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Lẽ nào ta giấu Áp-ra-ham điều chi ta sẽ làm sao? [18] vì Áp-ra-ham chắc sẽ được trở nên một dân lớn và cường thạnh; các dân tộc trên thế gian đều sẽ nhờ người mà được phước. [19] Ta đã chọn người đặng người khiến dạy các con cùng nội nhà người giữ theo đạo Ðức Giê-hô-va, làm các điều công bình và ngay thẳng; thế thì, Ðức Giê-hô-va sẽ làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã hứa cùng Áp-ra-ham. [20] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Tiếng kêu oan về Sô-đôm và Gô-mô-rơ thật là quá, tội lỗi các thành đó thật là trọng. [21] Ta muốn ngự xuống, để xem xét chúng nó ăn ở có thật như tiếng đã kêu thấu đến ta chăng; nếu chẳng thật, thì ta sẽ biết. [22] Vậy, thì đấng bèn từ đó đi qua hướng Sô-đôm; nhưng Áp-ra-ham hãy còn đứng chầu trước mặt Ðức Giê-hô-va. [23] Áp-ra-ham lại gần và thưa rằng: Chúa sẽ diệt người công bình luôn với người độc ác sao? [24] Ngộ trong thành có năm mươi người công bình, Chúa cũng sẽ diệt họ hết sao? Há chẳng tha thứ cho thành đó vì cớ năm mươi người công bình ở trong sao? [25] Không lẽ nào Chúa làm điều như vậy, diệt người công bình luôn với kẻ độc ác; đến đỗi kể người công bình cũng như người độc ác. Không, Chúa chẳng làm điều như vậy bao giờ! Ðấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao? [26] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Nếu ta tìm được trong Sô-đôm năm mươi người công bình, vì tình thương bấy nhiêu người đó ta sẽ tha hết cả thành. [27] Áp-ra-ham lại thưa rằng: mặc dầu tôi đây vốn là tro bụi, song tôi cũng dám cả gan thưa lại cùng Chúa. [28] Hãy trong năm mươi người công bình rủi thiếu hết năm; vì cớ năm người thiếu Chúa sẽ diệt hết cả thành chăng? Ngài trả lời rằng: Nếu ta tìm được có bốn mươi lăm người, ta chẳng diệt thành đâu. [29] Áp-ra-ham cứ thưa rằng: Ngộ trong thành chỉ có bốn mươi người công bình, thì sẽ ra sao? Ngài phán rằng: Ta sẽ chẳng diệt đâu, vì tình thương bốn mươi nầy. [30] Áp-ra-ham cứ tiếp: Tôi xin Chúa đừng giận, thì tôi sẽ thưa: Ngộ trong đó chỉ có ba mươi người, thì sẽ ra sao? Ngài phán: Nếu ta tìm trong đó có ba mươi người, thì ta chẳng diệt đâu. [31] Áp-ra-ham thưa rằng: Tôi đây cũng cả gan thưa cùng Chúa: Nếu chỉ có hai mươi người, thì lại làm sao? Ngài rằng: Vì tình thương hai mươi người đó, ta sẽ chẳng diệt thành đâu. [32] Áp-ra-ham lại thưa: Xin Chúa đừng giận, để cho tôi thưa chỉ một lần nầy nữa: Ngộ chỉ có mười người, thì nghĩ làm sao? Ngài phán rằng: Ta cũng sẽ chẳng diệt thành đâu, vì tình thương mười người đó. [33] Khi Ðức Giê-hô-va phán xong cùng Áp-ra-ham, thì Ngài ngự đi; còn Áp-ra-ham trở về trại mình. |
Chapter 19
Chương 19
[1] The two angels arrived at Sodom in the evening, and Lot was sitting in the gateway of the city. When he saw them, he got up to meet them and bowed down with his face to the ground.
[2] "My lords," he said, "please turn aside to your servant's house. You can wash your feet and spend the night and then go on your way early in the morning." "No," they answered, "we will spend the night in the square." [3] But he insisted so strongly that they did go with him and entered his house. He prepared a meal for them, baking bread without yeast, and they ate. [4] Before they had gone to bed, all the men from every part of the city of Sodom-- both young and old-- surrounded the house. [5] They called to Lot, "Where are the men who came to you tonight? Bring them out to us so that we can have sex with them." [6] Lot went outside to meet them and shut the door behind him [7] and said, "No, my friends. Don't do this wicked thing. [8] Look, I have two daughters who have never slept with a man. Let me bring them out to you, and you can do what you like with them. But don't do anything to these men, for they have come under the protection of my roof." [9] "Get out of our way," they replied. And they said, "This fellow came here as an alien, and now he wants to play the judge! We'll treat you worse than them." They kept bringing pressure on Lot and moved forward to break down the door. [10] But the men inside reached out and pulled Lot back into the house and shut the door. [11] Then they struck the men who were at the door of the house, young and old, with blindness so that they could not find the door. [12] The two men said to Lot, "Do you have anyone else here-- sons-in-law, sons or daughters, or anyone else in the city who belongs to you? Get them out of here, [13] because we are going to destroy this place. The outcry to the LORD against its people is so great that he has sent us to destroy it." [14] So Lot went out and spoke to his sons-in-law, who were pledged to marry his daughters. He said, "Hurry and get out of this place, because the LORD is about to destroy the city!" But his sons-in-law thought he was joking. [15] With the coming of dawn, the angels urged Lot, saying, "Hurry! Take your wife and your two daughters who are here, or you will be swept away when the city is punished." [16] When he hesitated, the men grasped his hand and the hands of his wife and of his two daughters and led them safely out of the city, for the LORD was merciful to them. [17] As soon as they had brought them out, one of them said, "Flee for your lives! Don't look back, and don't stop anywhere in the plain! Flee to the mountains or you will be swept away!" [18] But Lot said to them, "No, my lords, please! [19] Your servant has found favor in your eyes, and you have shown great kindness to me in sparing my life. But I can't flee to the mountains; this disaster will overtake me, and I'll die. [20] Look, here is a town near enough to run to, and it is small. Let me flee to it-- it is very small, isn't it? Then my life will be spared." [21] He said to him, "Very well, I will grant this request too; I will not overthrow the town you speak of. [22] But flee there quickly, because I cannot do anything until you reach it." (That is why the town was called Zoar.) [23] By the time Lot reached Zoar, the sun had risen over the land. [24] Then the LORD rained down burning sulfur on Sodom and Gomorrah-- from the LORD out of the heavens. [25] Thus he overthrew those cities and the entire plain, including all those living in the cities-- and also the vegetation in the land. [26] But Lot's wife looked back, and she became a pillar of salt. [27] Early the next morning Abraham got up and returned to the place where he had stood before the LORD. [28] He looked down toward Sodom and Gomorrah, toward all the land of the plain, and he saw dense smoke rising from the land, like smoke from a furnace. [29] So when God destroyed the cities of the plain, he remembered Abraham, and he brought Lot out of the catastrophe that overthrew the cities where Lot had lived. [30] Lot and his two daughters left Zoar and settled in the mountains, for he was afraid to stay in Zoar. He and his two daughters lived in a cave. [31] One day the older daughter said to the younger, "Our father is old, and there is no man around here to lie with us, as is the custom all over the earth. [32] Let's get our father to drink wine and then lie with him and preserve our family line through our father." [33] That night they got their father to drink wine, and the older daughter went in and lay with him. He was not aware of it when she lay down or when she got up. [34] The next day the older daughter said to the younger, "Last night I lay with my father. Let's get him to drink wine again tonight, and you go in and lie with him so we can preserve our family line through our father." [35] So they got their father to drink wine that night also, and the younger daughter went and lay with him. Again he was not aware of it when she lay down or when she got up. [36] So both of Lot's daughters became pregnant by their father. [37] The older daughter had a son, and she named him Moab; he is the father of the Moabites of today. [38] The younger daughter also had a son, and she named him Ben-Ammi; he is the father of the Ammonites of today. |
[1] Lối chiều, hai thiên sứ đến Sô-đôm; lúc đó, Lót đương ngồi tại cửa thành. Khi Lót thấy hai thiên sứ đến, đứng dậy mà đón rước và sấp mình xuống đất.
[2] Người thưa rằng: Nầy, lạy hai chúa, xin hãy đến ở nhà của kẻ tôi tớ, và hãy nghỉ đêm tại đó. Hai chúa hãy rửa chơn, rồi sáng mai thức dậy lên đường. Hai thiên sứ phán rằng: Không, đêm nầy ta sẽ ở ngoài đường. [3] Nhưng Lót cố mời cho đến đỗi hai thiên sứ phải đi lại vào nhà mình. Người dâng một bữa tiệc, làm bánh không men, và hai thiên sứ bèn dùng tiệc. [4] Hai thiên sứ chưa đi nằm, mà các người nam ở Sô-đôm, từ trẻ đến già, tức cả dân, đều chạy đến bao chung quanh nhà. [5] Bọn đó gọi Lót mà hỏi rằng: Những khác đã vào nhà ngươi buổi chiều tối nay ở đâu? Hãy dẫn họ ra đây, hầu cho chúng ta được biết. [6] Lót bèn ra đến cùng dân chúng ở ngoài cửa, rồi đóng cửa lại, [7] và nói cùng họ rằng: Nầy, tôi xin anh em đừng làm điều ác đó! [8] Ðây, tôi sẵn có hai con gái chưa chồng, tôi sẽ đưa chúng nó cho anh em, rồi mặc tình anh em tính làm sao tùy ý; miễn đừng làm cho hại cho hai người kia; vì cớ đó, nên họ đến núp bóng mái nhà tôi. [9] Bọn dân chúng nói rằng: Ngươi hãy tránh chỗ khác! Lại tiếp rằng: Người nầy đến đây như kẻ kiều ngụ, lại muốn đoán xét nữa sao! Vậy, thôi! chúng ta sẽ đãi ngươi bạc-tệ hơn hai khách kia. Ðoạn, họ lấn ép Lót mạnh quá, và tràn đến đặng phá cửa. [10] Nhưng hai thiên sứ giơ tay ra, đem Lót vào nhà, và đóng cửa lại, [11] đoạn, hành phạt bọn dân chúng ở ngoài cửa, từ trẻ đến già, đều quáng lòa mắt, cho đến đỗi tìm cửa mệt mà không được. [12] Hai thiên sứ bèn hỏi Lót rằng: Ngươi còn có ai tại đây nữa chăng? Rể, con trai, con gái và ai trong thành thuộc về ngươi, hãy đem ra khỏi hết đi! [13] Chúng ta sẽ hủy diệt chỗ nầy, vì tiếng kêu oan về dân thành nầy đã thấu lên đến Ðức Giê-hô-va, nên Ngài sai chúng ta xuống mà hủy diệt. [14] Lót bèn đi ra và nói cùng rể đã cưới con gái mình rằng: Hãy chổi dậy, đi ra khỏi chốn nầy, vì Ðức Giê-hô-va sẽ hủy diệt thành. Nhưng các chàng rể tưởng người nói chơi. [15] Ðến sáng, hai thiên sứ hối Lót và phán rằng: Hãy thức dậy, dẫn vợ và hai con gái ngươi đương ở đây ra, e khi ngươi cũng chết lây về việc hình phạt của thành nữa chăng. [16] Nhưng Lót lần lữa; vì cớ Ðức Giê-hô-va thương xót Lót, nên hai thiên sứ nắm lấy tai kéo người, vợ cùng hai con gái người, và dẫn ra khỏi thành. [17] Vả, khi hai thiên sứ dẫn họ ra khỏi rồi, một trong hai vì nói rằng: Hãy chạy trốn cứu lấy mạng, đừng ngó lại sau và cũng đừng dừng bước lại nơi nào ngoài đồng bằng; hãy chạy trốn lên núi, kẻo phải bỏ mình chăng. [18] Lót đáp lại rằng: Lạy Chúa, không được! [19] Nầy, tôi tớ đã được ơn trước mặt Chúa; Chúa đã tỏ lòng nhơn từ rất lớn cùng tôi mà cứu tròn sự sống tôi. Nhưng tôi chạy trốn lên núi không kịp trước khi tai nạn đến, thì tôi phải chết. [20] Kìa, thành kia đã nhỏ, lại cũng gần đặng tôi có thế ẩn mình. Ôi! chớ chi Chúa cho tôi ẩn đó đặng cứu tròn sự sống tôi. Thành nầy há chẳng phải nhỏ sao? [21] Thiên sứ phán rằng: Ðây, ta ban ơn nầy cho ngươi nữa, sẽ không hủy diệt thành của ngươi đã nói đó đâu. [22] Mau mau hãy lại ẩn đó, vì ta không làm chi được khi ngươi chưa vào đến nơi. Bởi cớ ấy, nên người ta gọi tên thành nầy là Xoa. [23] Khi mặt trời mọc lên khỏi đất, thì Lót vào đến thành Xoa. [24] Ðoạn, Ðức Giê-hô-va giáng mưa diêm sanh và lửa từ nơi Ngài trên trời sa xuống Sô-đôm và Gô-mô-rơ, [25] hủy diệt hai thành nầy, cả đồng bằng, hết thảy dân sự cùng các cây cỏ ở nơi đất đó. [26] Nhưng vợ của Lót quay ngó lại đặng sau mình, nên hóa ra một tượng muối. [27] Áp-ra-ham dậy sớm, đi đến nơi mà người đã đứng chầu Ðức Giê-hô-va, [28] ngó về hướng Sô-đôm và Gô-mô-rơ, cùng khắp xứ ở đồng bằng, thì thấy từ dưới đất bay lên một luồng khói, như khói của một lò lửa lớn. [29] Vả, khi Ðức Chúa Trời hủy diệt các thành nơi đồng bằng, tức là thành Lót ở, thì nhớ đến Áp-ra-ham, cứu Lót ra khỏi chốn phá tan đó. [30] Lót ở Xoa thì sợ hãi, nên cùng hai con gái mình bỏ đó mà lên núi, ở trong một hang đá kia. [31] Cô lớn nói cùng em mình rằng: Cha ta đã già, mà không còn ai trên mặt đất đến sánh duyên cùng ta theo như thế thường thiên hạ. [32] Hè! chúng ta hãy phục rượu cho cha, và lại nằm cùng người, để lưu truyền dòng giống cha lại. [33] Ðêm đó, hai nàng phục rượu cho cha mình; nàng lớn đến nằm cùng cha; nhưng người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết. [34] Qua ngày mai, chị nói cùng em rằng: Nầy, đêm hôm qua ta đã nằm cùng cha rồi; hôm nay chúng ta hãy phục rượu cho cha nữa, rồi em hãy lại nằm cùng người, để lưu truyền dòng giống cha lại. [35] Ðêm đó, hai nàng lại phục rượu cho cha mình nữa, rồi nàng nhỏ thức dậy lại nằm cùng cha; nhưng người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết. [36] Vậy, hai con gái của Lót do nơi cha mình mà thọ thai. [37] Nàng lớn sanh được một con trai, đặt tên là Mô-áp; ấy là tổ phụ của dân Mô-áp đến bây giờ. [38] Người em cũng sanh đặng một con trai, đặt trên là Bên-Am-mi; ấy là tổ phụ của dân Am-môn đến bây giờ. |
Chapter 20
Chương 20
[1] Now Abraham moved on from there into the region of the Negev and lived between Kadesh and Shur. For a while he stayed in Gerar,
[2] and there Abraham said of his wife Sarah, "She is my sister." Then Abimelech king of Gerar sent for Sarah and took her. [3] But God came to Abimelech in a dream one night and said to him, "You are as good as dead because of the woman you have taken; she is a married woman." [4] Now Abimelech had not gone near her, so he said, "Lord, will you destroy an innocent nation? [5] Did he not say to me, 'She is my sister,' and didn't she also say, 'He is my brother'? I have done this with a clear conscience and clean hands." [6] Then God said to him in the dream, "Yes, I know you did this with a clear conscience, and so I have kept you from sinning against me. That is why I did not let you touch her. [7] Now return the man's wife, for he is a prophet, and he will pray for you and you will live. But if you do not return her, you may be sure that you and all yours will die." [8] Early the next morning Abimelech summoned all his officials, and when he told them all that had happened, they were very much afraid. [9] Then Abimelech called Abraham in and said, "What have you done to us? How have I wronged you that you have brought such great guilt upon me and my kingdom? You have done things to me that should not be done." [10] And Abimelech asked Abraham, "What was your reason for doing this?" [11] Abraham replied, "I said to myself, 'There is surely no fear of God in this place, and they will kill me because of my wife.' [12] Besides, she really is my sister, the daughter of my father though not of my mother; and she became my wife. [13] And when God had me wander from my father's household, I said to her, 'This is how you can show your love to me: Everywhere we go, say of me, "He is my brother." '" [14] Then Abimelech brought sheep and cattle and male and female slaves and gave them to Abraham, and he returned Sarah his wife to him. [15] And Abimelech said, "My land is before you; live wherever you like." [16] To Sarah he said, "I am giving your brother a thousand shekels of silver. This is to cover the offense against you before all who are with you; you are completely vindicated." [17] Then Abraham prayed to God, and God healed Abimelech, his wife and his slave girls so they could have children again, [18] for the LORD had closed up every womb in Abimelech's household because of Abraham's wife Sarah. |
[1] Áp-ra-ham từ đó đi đến miền Nam, kiều ngụ tại Ghê-ra, ở về giữa khoảng Ca-đe và Su-rơ.
[2] Áp-ra-ham nói về Sa-ra, vợ mình rằng: Nó là em gái tôi. A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra sai người bắt Sa-ra. [3] Nhưng trong cơn chiêm bao ban đêm, Ðức Chúa Trời hiện đến cùng vua A-bi-mê-léc mà phán rằng: Nầy, ngươi sẽ chết bởi cớ người đờn bà mà ngươi đã bắt đến; vì nàng có chồng rồi. [4] Vả, vua A-bi-mê-léc chưa đến gần người đó, nên thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa há sẽ hủy diệt cả một dân công bình chăng? [5] Người đó há chẳng nói với tôi rằng: ấy là em gái tôi chăng? và chánh người nữ há chẳng nói rằng: ấy là anh tôi sao? Tôi làm sự nầy bởi lòng ngay thẳng và tay thanh khiết của tôi. [6] Trong cơn chiêm bao, Ðức Chúa Trời phán nữa rằng: Ta cũng biết ngươi vì lòng ngay thẳng mà làm điều đó; bởi cớ ấy, ta mới ngăn trở ngươi phạm tội cùng ta, và không cho động đến người đó. [7] Bây giờ, hãy giao đờn bà đó lại cho chồng nó, vì chồng nó là một đấng tiên tri, sẽ cầu nguyện cho ngươi, thì ngươi mới được sống. Còn như không giao lại, thì phải biết rằng ngươi và hết thảy ai thuộc về ngươi quả hẳn sẽ chết. [8] Vua A-bi-mê-léc dậy sớm, đòi các tôi tớ mình đến, thuật lại hết mọi lời, thì họ lấy làm kinh ngạc. [9] Rồi, A-bi-mê-léc đòi Áp-ra-ham mà nói rằng: Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Ta có làm điều chi mất lòng chăng mà ngươi làm cho ta và cả nước phải bị một việc phạm tội lớn dường nầy? Ðối cùng ta, ngươi đã làm những việc không nên làm đó. [10] Vua A-bi-mê-léc lại nói cùng Áp-ra-ham rằng: Ngươi có ý gì mà làm như vậy? [11] Áp-ra-ham đáp: Tôi tự nghĩ rằng: Trong xứ nầy thật không có ai kính sợ Ðức Chúa Trời, thì họ sẽ vì cớ vợ tôi mà giết tôi chăng. [12] Nhưng nó cũng thật là em gái tôi, em một cha khác mẹ; và tôi cưới nó làm vợ. [13] Khi Ðức Chúa Trời làm cho tôi phải lưu lạc xa nhà cha, thì tôi có nói với nàng rằng: Nầy là ơn của ngươi sẽ làm cho ta: Hễ chỗ nào chúng ta sẽ đi đến, hãy nói về ta: Ấy là anh tôi. [14] Ðoạn, vua A-bi-mê-léc đem chiên và bò, tôi trai cùng tớ gái cho Áp-ra-ham, và trả Sa-ra vợ người lại, mà phán rằng: [15] Nầy, xứ ta sẵn dành cho ngươi; ngươi thích đâu thì ở đó. [16] Rồi vua phán cùng Sa-ra rằng: Ðây, ta ban cho anh ngươi một ngàn miếng bạc; số tiền đó dùng cho ngươi như một bức màn che trước mắt về mọi việc đã xảy ra cùng ngươi; và mọi người đều sẽ cho ngươi là công bình. [17] Áp-ra-ham cầu xin Ðức Chúa Trời, thì Ngài chữa bịnh cho vua A-bi-mê-léc, vợ cùng các con đòi người; vậy, họ đều có con. [18] Vả, lúc trước, vì vụ Sa-ra, vợ Áp-ra-ham, nên Ðức Giê-hô-va làm cho cả nhà A-bi-mê-léc đều son sẻ. |
Chapter 21
Chương 21
[1] Now the LORD was gracious to Sarah as he had said, and the LORD did for Sarah what he had promised.
[2] Sarah became pregnant and bore a son to Abraham in his old age, at the very time God had promised him. [3] Abraham gave the name Isaac to the son Sarah bore him. [4] When his son Isaac was eight days old, Abraham circumcised him, as God commanded him. [5] Abraham was a hundred years old when his son Isaac was born to him. [6] Sarah said, "God has brought me laughter, and everyone who hears about this will laugh with me." [7] And she added, "Who would have said to Abraham that Sarah would nurse children? Yet I have borne him a son in his old age." [8] The child grew and was weaned, and on the day Isaac was weaned Abraham held a great feast. [9] But Sarah saw that the son whom Hagar the Egyptian had borne to Abraham was mocking, [10] and she said to Abraham, "Get rid of that slave woman and her son, for that slave woman's son will never share in the inheritance with my son Isaac." [11] The matter distressed Abraham greatly because it concerned his son. [12] But God said to him, "Do not be so distressed about the boy and your maidservant. Listen to whatever Sarah tells you, because it is through Isaac that your offspring will be reckoned. [13] I will make the son of the maidservant into a nation also, because he is your offspring." [14] Early the next morning Abraham took some food and a skin of water and gave them to Hagar. He set them on her shoulders and then sent her off with the boy. She went on her way and wandered in the desert of Beersheba. [15] When the water in the skin was gone, she put the boy under one of the bushes. [16] Then she went off and sat down nearby, about a bowshot away, for she thought, "I cannot watch the boy die." And as she sat there nearby, she began to sob. [17] God heard the boy crying, and the angel of God called to Hagar from heaven and said to her, "What is the matter, Hagar? Do not be afraid; God has heard the boy crying as he lies there. [18] Lift the boy up and take him by the hand, for I will make him into a great nation." [19] Then God opened her eyes and she saw a well of water. So she went and filled the skin with water and gave the boy a drink. [20] God was with the boy as he grew up. He lived in the desert and became an archer. [21] While he was living in the Desert of Paran, his mother got a wife for him from Egypt. [22] At that time Abimelech and Phicol the commander of his forces said to Abraham, "God is with you in everything you do. [23] Now swear to me here before God that you will not deal falsely with me or my children or my descendants. Show to me and the country where you are living as an alien the same kindness I have shown to you." [24] Abraham said, "I swear it." [25] Then Abraham complained to Abimelech about a well of water that Abimelech's servants had seized. [26] But Abimelech said, "I don't know who has done this. You did not tell me, and I heard about it only today." [27] So Abraham brought sheep and cattle and gave them to Abimelech, and the two men made a treaty. [28] Abraham set apart seven ewe lambs from the flock, [29] and Abimelech asked Abraham, "What is the meaning of these seven ewe lambs you have set apart by themselves?" [30] He replied, "Accept these seven lambs from my hand as a witness that I dug this well." [31] So that place was called Beersheba, because the two men swore an oath there. [32] After the treaty had been made at Beersheba, Abimelech and Phicol the commander of his forces returned to the land of the Philistines. [33] Abraham planted a tamarisk tree in Beersheba, and there he called upon the name of the LORD, the Eternal God. [34] And Abraham stayed in the land of the Philistines for a long time. |
[1] Ðức Giê-hô-va đến viếng Sa-ra, theo như lời Ngài đã phán, và làm cho nàng như lời Ngài đã nói.
[2] Sa-ra thọ thai, sanh một con trai cho Áp-ra-ham trong khi tuổi đã già, đúng kỳ Ðức Chúa Trời đã định. [3] Áp-ra-ham đặt tên đứa trai mà Sa-ra đã sanh cho mình là Y-sác. [4] Ðúng tám ngày, Áp-ra-ham làm phép cắt bì cho Y-sác theo như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn. [5] Vả, khi Y-sác ra đời, thì Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi. [6] Sa-ra nói rằng: Ðức Chúa Trời làm cho tôi một việc vui cười; hết thảy ai hay được cũng sẽ vui cười về sự của tôi. [7] Lại nói rằng: Há ai dám nói với Áp-ra-ham rằng Sa-ra sẽ cho con bú ư? vì tôi đã sanh một đứa trai trong lúc người già yếu rồi. [8] Ðứa trẻ lớn lên, thì thôi bú. Chánh ngày Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham bày một tiệc lớn ăn mừng. [9] Sa-ra thấy đứa trai của A-ga, người Ê-díp-tô, đã sanh cho Áp-ra-ham, cười cợt, [10] thì người nói với Áp-ra-ham rằng: Hãy đuổi con đòi với con nó đi đi, vì đứa trai của con đòi nầy sẽ chẳng được kế nghiệp cùng con trai tôi là Y-sác đâu. [11] Lời nầy lấy làm buồn lòng Áp-ra-ham lắm, vì cớ con trai mình. [12] Nhưng Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: Ngươi chớ buồn bực vì con trai và con đòi ngươi. Sa-ra nói thể nào, hãy nghe theo tiếng người nói; vì do nơi Y-sác sẽ sanh ra dòng dõi lưu danh ngươi. [13] Ta cũng sẽ làm cho đứa trai của con đòi trở nên một dân, vì nó cũng do một nơi ngươi mà ra. [14] Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu nước, đưa cho A-ga; để các món đó trên vai nàng, và giao đứa trai cho nàng, rồi đuổi đi. Nàng ra đi, đi dông dài trong đồng vắng Bê-e-Sê-ba. [15] Khi nước trong bầu đã hết, nàng để đứa trẻ dưới một cội cây nhỏ kia, [16] đi ngồi đối diện cách xa xa dài chừng một khoảng tên bắn; vì nói rằng: Ôi! tôi nỡ nào thấy đứa trẻ phải chết! Nàng ngồi đối diện đó, cất tiếng la khóc. [17] Ðức Chúa Trời nghe tiếng đứa trẻ khóc, thì thiên sứ của Ðức Chúa Trời từ trên trời kêu nàng A-ga mà phán rằng: Hỡi A-ga! Ngươi có điều gì vậy? Chớ sợ chi, vì Ðức Chúa Trời đã nghe tiếng đứa trẻ ở đâu đó rồi. [18] Hãy đứng dậy đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn. [19] Ðoạn, Ðức Chúa Trời mở mắt nàng ra; nàng bèn thấy một cái giếng nước, và đi lại múc đầy bầu cho đứa trẻ uống. [20] Ðức Chúa Trời vùa giúp đứa trẻ; nó lớn lên, ở trong đồng vắng, có tài bắn cung. [21] Nó ở tại trong đồng vắng Pha-ran; mẹ cưới cho nó một người vợ quê ở xứ Ê-díp-tô. [22] Về thuở đó, vua A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan tổng binh mình, nói cùng Áp-ra-ham rằng: Ðức Chúa Trời vùa giúp ngươi trong mọi việc ngươi làm. [23] Vậy bây giờ, hãy chỉ danh Ðức Chúa Trời mà thề rằng: Ngươi sẽ chẳng gạt ta, con ta cùng dòng giống ta. Nhưng ngươi sẽ đãi ta và xứ ngươi đương trú ngụ, một lòng tử tế như ta đã đãi ngươi vậy. [24] Áp-ra-ham đáp rằng: Tôi xin thề. [25] Áp-ra-ham phàn nàn cùng vua A-bi-mê-léc về vụ một giếng kia bị đầy tớ người chiếm đoạt. [26] Vua A-bi-mê-léc bèn nói rằng: Ta chẳng hay ai đã làm nên nông nổi đó; chính ngươi chẳng cho ta hay trước; ngày nay ta mới rõ đây mà thôi. [27] Ðoạn, Áp-ra-ham bắt chiên và bò, dâng cho vua A-bi-mê-léc; rồi hai người kết ước cùng nhau. [28] Áp-ra-ham lựa để riêng ra bảy con chiên tơ trong bầy; [29] thì vua A-bi-mê-léc hỏi rằng: Làm chi để bảy con chiên tơ đó riêng ra vậy? [30] Ðáp rằng: Xin vua hãy nhận lấy bảy con chiên tơ nầy mà chánh tay tôi dâng cho, đặng làm chứng rằng tôi đã đào cái giếng nầy. [31] Bởi cớ ấy, nên họ đặt tên chỗ nầy là Bê-e-Sê-ba; vì tại đó hai người đều đã thề nguyện cùng nhau. [32] Vậy, hai người kết ước cùng nhau tại Bê-e-Sê-ba. Ðoạn vua A-bi-mê-léc cùng quan tổng binh Phi-côn đứng dậy, trở về xứ Phi-li-tin. [33] Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-Sê-ba, và ở đó người cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời hằng-hữu. [34] Áp-ra-ham trú ngụ lâu ngày tại xứ Phi-li-tin. |
Chapter 22
Chương 22
[1] Some time later God tested Abraham. He said to him, "Abraham!" "Here I am," he replied.
[2] Then God said, "Take your son, your only son, Isaac, whom you love, and go to the region of Moriah. Sacrifice him there as a burnt offering on one of the mountains I will tell you about." [3] Early the next morning Abraham got up and saddled his donkey. He took with him two of his servants and his son Isaac. When he had cut enough wood for the burnt offering, he set out for the place God had told him about. [4] On the third day Abraham looked up and saw the place in the distance. [5] He said to his servants, "Stay here with the donkey while I and the boy go over there. We will worship and then we will come back to you." [6] Abraham took the wood for the burnt offering and placed it on his son Isaac, and he himself carried the fire and the knife. As the two of them went on together, [7] Isaac spoke up and said to his father Abraham, "Father?" "Yes, my son?" Abraham replied. "The fire and wood are here," Isaac said, "but where is the lamb for the burnt offering?" [8] Abraham answered, "God himself will provide the lamb for the burnt offering, my son." And the two of them went on together. [9] When they reached the place God had told him about, Abraham built an altar there and arranged the wood on it. He bound his son Isaac and laid him on the altar, on top of the wood. [10] Then he reached out his hand and took the knife to slay his son. [11] But the angel of the LORD called out to him from heaven, "Abraham! Abraham!" "Here I am," he replied. [12] "Do not lay a hand on the boy," he said. "Do not do anything to him. Now I know that you fear God, because you have not withheld from me your son, your only son." [13] Abraham looked up and there in a thicket he saw a ram caught by its horns. He went over and took the ram and sacrificed it as a burnt offering instead of his son. [14] So Abraham called that place The LORD Will Provide. And to this day it is said, "On the mountain of the LORD it will be provided." [15] The angel of the LORD called to Abraham from heaven a second time [16] and said, "I swear by myself, declares the LORD, that because you have done this and have not withheld your son, your only son, [17] I will surely bless you and make your descendants as numerous as the stars in the sky and as the sand on the seashore. Your descendants will take possession of the cities of their enemies, [18] and through your offspring all nations on earth will be blessed, because you have obeyed me." [19] Then Abraham returned to his servants, and they set off together for Beersheba. And Abraham stayed in Beersheba. [20] Some time later Abraham was told, "Milcah is also a mother; she has borne sons to your brother Nahor: [21] Uz the firstborn, Buz his brother, Kemuel (the father of Aram), [22] Kesed, Hazo, Pildash, Jidlaph and Bethuel." [23] Bethuel became the father of Rebekah. Milcah bore these eight sons to Abraham's brother Nahor. [24] His concubine, whose name was Reumah, also had sons: Tebah, Gaham, Tahash and Maacah. |
[1] Khi mọi việc kia đã xong, thì Ðức Chúa Trời thử Áp-ra-ham; Ngài phán rằng: Hỡi Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây.
[2] Ðức Chúa Trời phán rằng: Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sác, và đi đến xứ Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ chỉ cho. [3] Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem hai đầy tớ và con mình, là Y-sác, cùng đi; người cũng chặt củi để dùng về của lễ thiêu, rồi đi đến nơi mà Ðức Chúa Trời đã truyền dạy. [4] Qua đến ngày thứ ba, Áp-ra-ham nhướng mắt lên thấy nơi đó ở lối đằng xa, [5] thì nói cùng hai kẻ đầy tớ rằng: Hãy ở lại đây với con lừa; ta cùng đứa trẻ sẽ đi đến chốn kia đặng thờ phượng, rồi sẽ trở lại với hai ngươi. [6] Áp-ra-ham lấy củi về của lễ thiêu, chất trên Y-sác, con mình; rồi người cầm lửa và dao trong tay, và cả hai cha con đồng đi. [7] Y-sác bèn nói cùng Áp-ra-ham, cha mình rằng: Hỡi Cha! Người đáp: Con ơi! cha đây. Y-sác nói: Củi đây, lửa đây, nhưng chiên con đây có đặng làm của lễ thiêu? [8] Áp-ra-ham rằng: Con ơi! chính Ðức Chúa Trời sẽ sắm sẵn lấy chiên con đặng dùng làm của lễ thiêu; rồi cả hai cha con cứ đồng đi. [9] Họ đến chốn Ðức Chúa Trời đã phán dạy; tại đó, Áp-ra-ham lập bàn thờ, chất củi lên, trói Y-sác con mình lại, để lên đống củi trên bàn thờ. [10] Áp-ra-ham bèn giơ tay ra cầm lấy dao đặng giết con mình. [11] Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va từ trên trời kêu xuống mà rằng: Hỡi Áp-ra-ham, Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây. [12] Thiên sứ phán rằng: Ðừng tra tay vào mình con trẻ và chớ làm chi hại đến nó; vì bây giờ ta biết rằng ngươi thật kính sợ Ðức Chúa Trời, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức con một ngươi. [13] Áp-ra-ham nhướng mắt lên, xem thấy sau lưng một con chiên đực, sừng mắc trong bụi cây, bèn bắt con chiên đực đó dâng làm của lễ thiêu thay cho con mình. [14] Áp-ra-ham gọi chỗ đó là Giê-hô-va Di-rê. Bởi cớ ấy, ngày nay có tục ngữ rằng: Trên núi của Ðức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn. [15] Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va từ trên trời kêu Áp-ra-ham lần thứ nhì mà rằng: [16] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Vì ngươi đã làm điều đó, không tiếc con ngươi, tức con một ngươi, thì ta lấy chánh mình ta mà thề rằng: [17] sẽ ban phước cho ngươi, thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, đông như cát bờ biển, và dòng dõi đó sẽ chiếm được cửa thành quân nghịch. [18] Bởi vì ngươi đã vâng theo lời dặn ta, nên các dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước. [19] Ðoạn Áp-ra-ham trở về nơi hai người đầy tớ; họ đứng dậy, đồng nhau đi về Bê-e-Sê-ba. Áp-ra-ham cứ ở tại Bê-e-Sê-ba. [20] Sau các việc đó, người ta thuật lại với Áp-ra-ham tin nầy rằng: Nầy, nàng Minh-ca cũng sanh con cho em ngươi, là Na-cô. [21] Con trưởng nam là Uùt-xơ, em trai là Bu-xơ, Kê-mu-ên, cha của A-ram; [22] Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp và Bê-tu-ên; [23] Bê-tu-ên là người sanh Rê-be-ca. Minh-ca sanh tám người con trai đó cho Na-cô, em của Áp-ra-ham. [24] Còn người vợ nhỏ, tên là Rê-u-ma, cũng sanh con, là Tê-la, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca. |
Chapter 23
Chương 23
[1] Sarah lived to be a hundred and twenty-seven years old.
[2] She died at Kiriath Arba (that is, Hebron) in the land of Canaan, and Abraham went to mourn for Sarah and to weep over her. [3] Then Abraham rose from beside his dead wife and spoke to the Hittites. He said, [4] "I am an alien and a stranger among you. Sell me some property for a burial site here so I can bury my dead." [5] The Hittites replied to Abraham, [6] "Sir, listen to us. You are a mighty prince among us. Bury your dead in the choicest of our tombs. None of us will refuse you his tomb for burying your dead." [7] Then Abraham rose and bowed down before the people of the land, the Hittites. [8] He said to them, "If you are willing to let me bury my dead, then listen to me and intercede with Ephron son of Zohar on my behalf [9] so he will sell me the cave of Machpelah, which belongs to him and is at the end of his field. Ask him to sell it to me for the full price as a burial site among you." [10] Ephron the Hittite was sitting among his people and he replied to Abraham in the hearing of all the Hittites who had come to the gate of his city. [11] "No, my lord," he said. "Listen to me; I give you the field, and I give you the cave that is in it. I give it to you in the presence of my people. Bury your dead." [12] Again Abraham bowed down before the people of the land [13] and he said to Ephron in their hearing, "Listen to me, if you will. I will pay the price of the field. Accept it from me so I can bury my dead there." [14] Ephron answered Abraham, [15] "Listen to me, my lord; the land is worth four hundred shekels of silver, but what is that between me and you? Bury your dead." [16] Abraham agreed to Ephron's terms and weighed out for him the price he had named in the hearing of the Hittites: four hundred shekels of silver, according to the weight current among the merchants. [17] So Ephron's field in Machpelah near Mamre-- both the field and the cave in it, and all the trees within the borders of the field-- was deeded [18] to Abraham as his property in the presence of all the Hittites who had come to the gate of the city. [19] Afterward Abraham buried his wife Sarah in the cave in the field of Machpelah near Mamre (which is at Hebron) in the land of Canaan. [20] So the field and the cave in it were deeded to Abraham by the Hittites as a burial site. |
[1] Sa-ra hưởng thọ được một trăm hai mươi bảy tuổi. Ấy là bao nhiêu năm của đời Sa-ra.
[2] Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át-a-ra-ba, tức là Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an. Áp-ra-ham đến chịu tang cho Sa-ra và than khóc người. [3] Ðoạn, Áp-ra-ham đứng dậy trước người chết mình và nói cùng dân họ Hếch rằng: [4] Ta là một khách kiều ngụ trong vòng các ngươi; xin hãy cho một nơi mộ địa trong xứ các ngươi, để chôn người thác của ta. [5] Dân họ Hếch đáp rằng: [6] Lạy Chúa, xin hãy nghe chúng tôi: giữa chúng tôi, chúa tức là một quân trưởng của Ðức Chúa Trời; hãy chôn người chết của chúa nơi mộ địa nào tốt hơn hết của chúng tôi. Trong bọn chúng tôi chẳng có ai tiếc mộ địa mình, đặng chôn người chết của chúa đâu. [7] Áp-ra-ham bèn đứng dậy, sấp mình xuống trước mặt các dân của xứ, tức dân họ Hếch, [8] mà nói rằng: Nếu các ngươi bằng lòng cho chôn người chết ta, thì hãy nghe lời, và cầu xin Ép-rôn, con của Xô-ha giùm ta, [9] đặng người nhượng cho ta hang đá Mặc-bê-la, ở về tận đầu đồng người, để lại cho đúng giá, hầu cho ta được trong vòng các ngươi một nơi mộ địa. [10] Vả, Ép-rôn, người Hê-tít, đương ngồi trong bọn dân họ Hếch, đáp lại cùng Áp-ra-ham trước mặt dân họ Hếch vẫn nghe và trước mặt mọi người đến nơi cửa thành, mà rằng: [11] Không, thưa chúa, hãy nghe lời tôi: Hiện trước mặt dân tôi, tôi xin dâng cho chúa cánh đồng, và cũng dâng luôn cái hang đá ở trong đó nữa; hãy chôn người chết của chúa đi. [12] Áp-ra-ham sấp mình xuống trước mặt dân của xứ, [13] và nói lại cùng Ép-rôn hiện trước mặt dân của xứ đương nghe, mà rằng: Xin hãy nghe, ta trả giá tiền cái đồng, hãy nhận lấy đi, thì ta mới chôn người chết ta, [14] Ép-rôn đáp rằng: [15] Thưa Chúa, hãy nghe lời tôi: một miếng đất giá đáng bốn trăm siếc-lơ bạc, mà tôi cùng chúa, thì có giá chi đâu? Xin hãy chôn người chết của chúa đi. [16] Áp-ra-ham nghe theo lời Ép-rôn, trước mặt dân họ Hếch cân bốn trăm siếc-lơ bạc cho người, là bạc thông dụng nơi các tay buôn bán. [17] Vậy, cái đồng của Ép-rôn, tại Mặc-bê-la, nằm ngang Mam-rê, nghĩa là cái đồng ruộng hang đá, các cây cối ở trong và chung quanh theo giới hạn đồng, [18] đều trước mặt có các dân họ Hếch cùng mọi người đến cửa thành, nhận chắc cho Áp-ra-ham làm sản nghiệp. [19] Sau các việc đó, Áp-ra-ham chôn Sa-ra, vợ mình, trong hang đá của đồng Mặc-bê-la, nằm ngang Nam-rê tại Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an. [20] Ðồng và hang đá đều có các người họ Hếch nhận chắc, để lại cho Áp-ra-ham dùng làm mộ địa. |
Chapter 24
Chương 24
[1] Abraham was now old and well advanced in years, and the LORD had blessed him in every way.
[2] He said to the chief servant in his household, the one in charge of all that he had, "Put your hand under my thigh. [3] I want you to swear by the LORD, the God of heaven and the God of earth, that you will not get a wife for my son from the daughters of the Canaanites, among whom I am living, [4] but will go to my country and my own relatives and get a wife for my son Isaac." [5] The servant asked him, "What if the woman is unwilling to come back with me to this land? Shall I then take your son back to the country you came from?" [6] "Make sure that you do not take my son back there," Abraham said. [7] "The LORD, the God of heaven, who brought me out of my father's household and my native land and who spoke to me and promised me on oath, saying, 'To your offspring I will give this land'-- he will send his angel before you so that you can get a wife for my son from there. [8] If the woman is unwilling to come back with you, then you will be released from this oath of mine. Only do not take my son back there." [9] So the servant put his hand under the thigh of his master Abraham and swore an oath to him concerning this matter. [10] Then the servant took ten of his master's camels and left, taking with him all kinds of good things from his master. He set out for Aram Naharaim and made his way to the town of Nahor. [11] He had the camels kneel down near the well outside the town; it was toward evening, the time the women go out to draw water. [12] Then he prayed, "O LORD, God of my master Abraham, give me success today, and show kindness to my master Abraham. [13] See, I am standing beside this spring, and the daughters of the townspeople are coming out to draw water. [14] May it be that when I say to a girl, 'Please let down your jar that I may have a drink,' and she says, 'Drink, and I'll water your camels too'-- let her be the one you have chosen for your servant Isaac. By this I will know that you have shown kindness to my master." [15] Before he had finished praying, Rebekah came out with her jar on her shoulder. She was the daughter of Bethuel son of Milcah, who was the wife of Abraham's brother Nahor. [16] The girl was very beautiful, a virgin; no man had ever lain with her. She went down to the spring, filled her jar and came up again. [17] The servant hurried to meet her and said, "Please give me a little water from your jar." [18] "Drink, my lord," she said, and quickly lowered the jar to her hands and gave him a drink. [19] After she had given him a drink, she said, "I'll draw water for your camels too, until they have finished drinking." [20] So she quickly emptied her jar into the trough, ran back to the well to draw more water, and drew enough for all his camels. [21] Without saying a word, the man watched her closely to learn whether or not the LORD had made his journey successful. [22] When the camels had finished drinking, the man took out a gold nose ring weighing a beka and two gold bracelets weighing ten shekels. [23] Then he asked, "Whose daughter are you? Please tell me, is there room in your father's house for us to spend the night?" [24] She answered him, "I am the daughter of Bethuel, the son that Milcah bore to Nahor." [25] And she added, "We have plenty of straw and fodder, as well as room for you to spend the night." [26] Then the man bowed down and worshiped the LORD, [27] saying, "Praise be to the LORD, the God of my master Abraham, who has not abandoned his kindness and faithfulness to my master. As for me, the LORD has led me on the journey to the house of my master's relatives." [28] The girl ran and told her mother's household about these things. [29] Now Rebekah had a brother named Laban, and he hurried out to the man at the spring. [30] As soon as he had seen the nose ring, and the bracelets on his sister's arms, and had heard Rebekah tell what the man said to her, he went out to the man and found him standing by the camels near the spring. [31] "Come, you who are blessed by the LORD," he said. "Why are you standing out here? I have prepared the house and a place for the camels." [32] So the man went to the house, and the camels were unloaded. Straw and fodder were brought for the camels, and water for him and his men to wash their feet. [33] Then food was set before him, but he said, "I will not eat until I have told you what I have to say." "Then tell us," [Laban] said. [34] So he said, "I am Abraham's servant. [35] The LORD has blessed my master abundantly, and he has become wealthy. He has given him sheep and cattle, silver and gold, menservants and maidservants, and camels and donkeys. [36] My master's wife Sarah has borne him a son in her old age, and he has given him everything he owns. [37] And my master made me swear an oath, and said, 'You must not get a wife for my son from the daughters of the Canaanites, in whose land I live, [38] but go to my father's family and to my own clan, and get a wife for my son.' [39] "Then I asked my master, 'What if the woman will not come back with me?' [40] "He replied, 'The LORD, before whom I have walked, will send his angel with you and make your journey a success, so that you can get a wife for my son from my own clan and from my father's family. [41] Then, when you go to my clan, you will be released from my oath even if they refuse to give her to you-- you will be released from my oath.' [42] "When I came to the spring today, I said, 'O LORD, God of my master Abraham, if you will, please grant success to the journey on which I have come. [43] See, I am standing beside this spring; if a maiden comes out to draw water and I say to her, "Please let me drink a little water from your jar," [44] and if she says to me, "Drink, and I'll draw water for your camels too," let her be the one the LORD has chosen for my master's son.' [45] "Before I finished praying in my heart, Rebekah came out, with her jar on her shoulder. She went down to the spring and drew water, and I said to her, 'Please give me a drink.' [46] "She quickly lowered her jar from her shoulder and said, 'Drink, and I'll water your camels too.' So I drank, and she watered the camels also. [47] "I asked her, 'Whose daughter are you?' "She said, 'The daughter of Bethuel son of Nahor, whom Milcah bore to him.' "Then I put the ring in her nose and the bracelets on her arms, [48] and I bowed down and worshiped the LORD. I praised the LORD, the God of my master Abraham, who had led me on the right road to get the granddaughter of my master's brother for his son. [49] Now if you will show kindness and faithfulness to my master, tell me; and if not, tell me, so I may know which way to turn." [50] Laban and Bethuel answered, "This is from the LORD; we can say nothing to you one way or the other. [51] Here is Rebekah; take her and go, and let her become the wife of your master's son, as the LORD has directed." [52] When Abraham's servant heard what they said, he bowed down to the ground before the LORD. [53] Then the servant brought out gold and silver jewelry and articles of clothing and gave them to Rebekah; he also gave costly gifts to her brother and to her mother. [54] Then he and the men who were with him ate and drank and spent the night there. When they got up the next morning, he said, "Send me on my way to my master." [55] But her brother and her mother replied, "Let the girl remain with us ten days or so; then you may go." [56] But he said to them, "Do not detain me, now that the LORD has granted success to my journey. Send me on my way so I may go to my master." [57] Then they said, "Let's call the girl and ask her about it." [58] So they called Rebekah and asked her, "Will you go with this man?" "I will go," she said. [59] So they sent their sister Rebekah on her way, along with her nurse and Abraham's servant and his men. [60] And they blessed Rebekah and said to her, "Our sister, may you increase to thousands upon thousands; may your offspring possess the gates of their enemies." [61] Then Rebekah and her maids got ready and mounted their camels and went back with the man. So the servant took Rebekah and left. [62] Now Isaac had come from Beer Lahai Roi, for he was living in the Negev. [63] He went out to the field one evening to meditate, and as he looked up, he saw camels approaching. [64] Rebekah also looked up and saw Isaac. She got down from her camel [65] and asked the servant, "Who is that man in the field coming to meet us?" "He is my master," the servant answered. So she took her veil and covered herself. [66] Then the servant told Isaac all he had done. [67] Isaac brought her into the tent of his mother Sarah, and he married Rebekah. So she became his wife, and he loved her; and Isaac was comforted after his mother's death. |
[1] Vả, Áp-ra-ham đã già, tuổi đã cao; trong mọi việc Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho người.
[2] Áp-ra-ham nói cũng người đầy tớ ở lâu hơn hết trong nhà mình, có quyền quản trị các gia tài, mà rằng: Xin hãy đặt tay lên đùi ta, [3] và ta sẽ biểu ngươi chỉ Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của trời và đất, mà thề rằng: ngươi không cưới một cô nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, tức giữa dân ấy ta trú ngụ, làm vợ cho con trai ta. [4] Nhưng hãy đi về quê hương ta, trong vòng bà con ta, cưới một người vợ cho Y-sác, con trai ta. [5] Người đầy tớ thưa rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về xứ nầy; vậy, có phải tôi dẫn con trai ông đến xứ mà ông đã ra đi khỏi chăng? [6] Áp-ra-ham nói rằng: Hãy cẩn thận, đừng dẫn con ta về xứ đó! [7] Giê-hô-va Ðức Chúa Trời trên trời, là Ðấng đã đem ta ra khỏi nhà cha ta và xứ sở ta, có phán và thề rằng: Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy! Chánh Ngài sẽ sai thiên sứ đi trước ngươi, và nơi đó ngươi hãy cưới một vợ cho con trai ta. [8] Nếu người con gái không khứng theo, thì ngươi sẽ khỏi mắc lời của ta biểu ngươi thề; mà dẫu thế nào đi nữa, chớ đem con ta về chốn đó. [9] Ðoạn, người đầy tớ để tay lên đùi Áp-ra-ham chủ mình, và thề sẽ làm theo như lời người đã dặn biểu. [10] Ðoạn, người đầy tớ bắt mười con lạc đà trong bầy của chủ mình, đem theo đủ các tài vật của chủ đã giao, rồi đứng dậy đi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành của Na-cô. [11] Người cho lạc đà nằm quì gối xuống nghỉ ở ngoài thành, gần bên một giếng kia, vào buổi chiều, đến giờ của những con gái ra đi xách nước. [12] Người nói rằng: Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi ơi! xin ngày nay cho tôi gặp điều mà tôi tìm kiếm, và hãy làm ơn cho chủ Áp-ra-ham tôi! [13] Nầy, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi xách nước, [14] xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: "Xin nàng hãy nghiêng bình, cho tôi uống nhờ hớp nước," mà nàng trả lời rằng: "Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa," là chánh người mà Chúa đã định cho Y-sác, kẻ tôi tớ người; và nhờ đó tôi sẽ biết rằng Chúa đã làm ơn cho chủ tôi vậy. [15] Người đầy tớ chưa dứt lời, nầy, nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra. Nàng là con gái của Bê-tu-ên, Bê-tu-ên là con trai của Minh-ca, vợ Na-cô, em trai của Áp-ra-ham. [16] Người gái trẻ đó thật rất đẹp, còn đồng trinh, chưa gả cho ai. Nàng xuống giếng nhận đầy bình nước, rồi trở lên. [17] Ðầy tớ bèn chạy lại trước mặt nàng và nói rằng: Xin hãy cho tôi uống một hớp nước trong bình. [18] Nàng đáp rằng: Thưa chúa, hãy uống đi; rồi nàng lật đật đỡ bình xuống tay và cho người uống. [19] Khi đỡ cho người uống xong rồi, nàng lại tiếp rằng: Tôi cũng sẽ xách cho mấy con lạc đà chúa uống nữa, chừng nào uống đã thì thôi. [20] Nàng lật đật đổ nước bình ra máng, chạy xuống giếng xách nước thêm nữa cho hết thảy các con lạc đà uống. [21] Còn người ngồi làm thinh mà nhìn nàng, để cho biết Ðức Giê-hô-va làm thành công việc mình đi đây hay chăng. [22] Khi lạc đà vừa thôi uống, người đầy tớ bèn lấy một khoanh vàng nặng được nửa siếc-lơ và đôi xuyến nặng được mười siếc-lơ, [23] mà nói rằng: Nàng là con ai? xin nói cho tôi biết. Trong nhà cha nàng có chỗ nào cho tôi ở nghỉ ban đêm chăng? [24] Nàng đáp rằng: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Minh-ca và Na-cô. [25] Rồi lại nói: Nhà chúng tôi có nhiều rơm và cỏ, và cũng có chỗ để cho ở nghỉ nữa. [26] Người bèn cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, [27] mà nói rằng: Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Ngài chẳng ngớt thương xót và thành thực đối cùng chủ tôi! Khi đương đi, Ðức Giê-hô-va dẫn dắt tôi đến nhà anh em của chủ tôi vậy. [28] Người gái trẻ đó chạy về, thuật chuyện nầy lại cho nội nhà mẹ mình. [29] Vả, nàng Rê-be-ca có một anh, tên là La-ban. La-ban chạy đến người đầy tớ đó ở gần bên giếng. [30] Vừa thấy khoanh vàng và đôi xuyến nơi tay em gái mình, và đã nghe chuyện Rê-be-ca thuật lại rằng: Người nầy nói vậy! thì đi đến người, đương đứng gần bên mấy con lạc đà, ở nơi giếng nước, [31] mà thưa rằng: Hởi người đã được Ðức Giê-hô-va ban phước! Xin mời vào. Sao đứng ngoài nầy vậy? Tôi đã sửa soạn nhà và dọn-dẹp một nơi cho mấy con lạc đà rồi. [32] Người đầy tớ bèn vào nhà; La-ban cổi yên cho lạc đà, đem cỏ cùng rơm cho các thú đó; rồi lấy nước đặng rửa chơn cho người đầy tớ và mấy kẻ đi theo. [33] Ðoạn, người nhà bày bữa và mời ăn; nhưng người đầy tớ nói: Không, tôi không ăn đâu, nếu chưa nói được những điều tôi cần phải nói. La-ban đáp rằng: Hãy nói đi! [34] Người bèn nói rằng: Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham. [35] Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài cho chủ tôi chiên, bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. [36] Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã giao gia tài mình lại hết cho con trai đó. [37] Chủ tôi lại có bắt tôi thề rằng: Ngươi chớ cưới cho con trai ta một người vợ nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, là xứ ta đương trú ngụ; [38] nhưng hãy về nhà cha ta, trong vòng bà con ta, mà cưới cho nó một người vợ tại đó. [39] Tôi nói cùng chủ tôi rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về. [40] Chủ đáp rằng: Ðức Giê-hô-va là Ðấng ta phục sự sẽ sai thiên sứ theo ngươi, làm cho thành công việc ngươi đi; và ngươi sẽ cưới cho con trai ta một người vợ trong vòng bà con ta, tại nhà cha ta. [41] Vậy, nếu khi ngươi đi về bà con ta, mà họ không khứng gả cho, thì ngươi sẽ được gỡ lời thề nặng của ngươi đã thề cùng ta đó. [42] Ngày nay, khi đi đến giếng kia, tôi có cầu rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Xin đoái đến mà giúp công việc của tôi đi đây cho được thành! [43] Nầy, tôi ngồi gần bên giếng nầy: cầu xin hễ người gái trẻ nào sẽ ra xách nước mà tôi nói cùng nàng rằng: Xin cho tôi uống một hớp nước trong bình; [44] mà sẽ trả lời rằng: Hãy uống đi, trước tôi sẽ xách cho các lạc đà ngươi uống nữa, xin cho người gái trẻ đó là vợ mà Ðức Giê-hô-va đã định cho con trai của chủ tôi! [45] Chưa dứt lời thầm nguyện, bỗng đâu nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra, xuống giếng xách nước. Tôi nói với nàng rằng: Xin cho tôi uống hớp nước. [46] Nàng lật đật hạ bình trên vai xuống mà nói rằng: Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa; vậy tôi có uống và nàng cũng có cho các lạc đà uống nữa. [47] Tôi bèn hỏi nàng rằng: Nàng là con gái ai? Nàng đáp: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Na-cô và Minh-ca. Tôi liền đeo cái khoanh nơi lỗ mũi và đôi xuyến vào tay nàng. [48] Ðoạn, tôi cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, mà đã dẫn tôi vào đường chánh đáng, để chọn được cho con trai người con gái của em chủ tôi. [49] Vậy, bây giờ, nếu các ông muốn lấy lòng tử tế và trung tín đối cùng chủ tôi, xin hãy tỏ điều đó cho, dầu không, xin cũng nói cho biết, hầu cho tôi sẽ xây về bên hữu hay là về bên tả. [50] La-ban và Bê-tu-ên đáp rằng: Ðiều đó do nơi Ðức Giê-hô-va mà ra, chúng tôi đâu nói được cùng ngươi rằng quấy hay rằng phải. [51] Kìa, Rê-be-ca đương ở trước mặt ngươi, hãy dẫn nó đi, để nó được làm vợ của con trai chủ ngươi, theo như lời Ðức Giê-hô-va phán định. [52] Ðầy tớ của Áp-ra-ham vừa nghe lời hai người nói xong, liền sấp mình xuống đất trước mặt Ðức Giê-hô-va. [53] Người lấy đồ trang sức bằng bạc, vàng, và áo xống trao cho Rê-be-ca; rồi cùng lấy các vật quí dâng cho anh và mẹ nàng. [54] Ðoạn người đầy tớ cùng các người đi theo ngồi ăn uống; rồi ngủ tại đó. Qua ngày sau, khi họ đã thức dậy, người đầy tớ nói rằng: Xin hãy cho tôi trở về chủ. [55] Nhưng anh và mẹ nàng rằng: Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi. [56] Ðầy tớ đáp rằng: Xin chớ cầm tôi trễ lại, vì Ðức Giê-hô-va có làm việc đi đường tôi được thành. Hãy cho tôi đi, trở về nhà chủ tôi. [57] Họ đáp rằng: Chúng ta hãy gọi người gái trẻ đó và hỏi ý nó ra sao; [58] bèn kêu Rê-be-ca và nói rằng: Con muốn đi cùng người nầy chăng? Nàng rằng: Tôi muốn đi. [59] Ðoạn, họ cho Rê-be-ca, em gái mình, và người vú của nàng, đi về theo người đầy tớ của Áp-ra-ham và các kẻ đi theo. [60] Họ chúc phước cho Rê-be-ca mà rằng: Hỡi em gái chúng ta! Chúc cho em được trở nên mẹ của ức triệu người, và cho dòng dõi em được chiếm lấy cửa thành của quân nghịch. [61] Rê-be-ca và các đòi nàng đứng dậy, lên cỡi lạc đà, đi theo người đầy tớ đó. Vậy, người đầy tớ dẫn Rê-be-ca đi. [62] Bấy giờ Y-sác ở tại nam phương từ giếng La-chai-Roi trở về; [63] lối chiều, người đi ra ngoài đồng đặng suy ngẫm; nhướng mắt lên, kìa ngó thấy lạc đà đâu đi đến. [64] Nàng Rê-be-ca cũng nhướng mắt lên, bèn chợt thấy Y-sác; liền nhảy xuống lạc đà, [65] và hỏi đầy tớ rằng: Người ở đằng trước mặt tôi đi lại trong đồng đó là ai: Ðầy tớ thưa rằng: Ấy là chủ tôi đó. Nàng bèn lấy lúp che mặt lại. [66] Rồi, đầy tớ thuật cho Y-sác nghe hết các việc mà mình đã làm; [67] Y-sác bèn dẫn Rê-be-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình, cưới làm vợ, và yêu mến nàng. Vậy, Y-sác được giải phiền sau khi mẹ mình qua đời. |
Chapter 25
Chương 25
[1] Abraham took another wife, whose name was Keturah.
[2] She bore him Zimran, Jokshan, Medan, Midian, Ishbak and Shuah. [3] Jokshan was the father of Sheba and Dedan; the descendants of Dedan were the Asshurites, the Letushites and the Leummites. [4] The sons of Midian were Ephah, Epher, Hanoch, Abida and Eldaah. All these were descendants of Keturah. [5] Abraham left everything he owned to Isaac. [6] But while he was still living, he gave gifts to the sons of his concubines and sent them away from his son Isaac to the land of the east. [7] Altogether, Abraham lived a hundred and seventy-five years. [8] Then Abraham breathed his last and died at a good old age, an old man and full of years; and he was gathered to his people. [9] His sons Isaac and Ishmael buried him in the cave of Machpelah near Mamre, in the field of Ephron son of Zohar the Hittite, [10] the field Abraham had bought from the Hittites. There Abraham was buried with his wife Sarah. [11] After Abraham's death, God blessed his son Isaac, who then lived near Beer Lahai Roi. [12] This is the account of Abraham's son Ishmael, whom Sarah's maidservant, Hagar the Egyptian, bore to Abraham. [13] These are the names of the sons of Ishmael, listed in the order of their birth: Nebaioth the firstborn of Ishmael, Kedar, Adbeel, Mibsam, [14] Mishma, Dumah, Massa, [15] Hadad, Tema, Jetur, Naphish and Kedemah. [16] These were the sons of Ishmael, and these are the names of the twelve tribal rulers according to their settlements and camps. [17] Altogether, Ishmael lived a hundred and thirty-seven years. He breathed his last and died, and he was gathered to his people. [18] His descendants settled in the area from Havilah to Shur, near the border of Egypt, as you go toward Asshur. And they lived in hostility toward all their brothers. [19] This is the account of Abraham's son Isaac. Abraham became the father of Isaac, [20] and Isaac was forty years old when he married Rebekah daughter of Bethuel the Aramean from Paddan Aram and sister of Laban the Aramean. [21] Isaac prayed to the LORD on behalf of his wife, because she was barren. The LORD answered his prayer, and his wife Rebekah became pregnant. [22] The babies jostled each other within her, and she said, "Why is this happening to me?" So she went to inquire of the LORD. [23] The LORD said to her, "Two nations are in your womb, and two peoples from within you will be separated; one people will be stronger than the other, and the older will serve the younger." [24] When the time came for her to give birth, there were twin boys in her womb. [25] The first to come out was red, and his whole body was like a hairy garment; so they named him Esau. [26] After this, his brother came out, with his hand grasping Esau's heel; so he was named Jacob. Isaac was sixty years old when Rebekah gave birth to them. [27] The boys grew up, and Esau became a skillful hunter, a man of the open country, while Jacob was a quiet man, staying among the tents. [28] Isaac, who had a taste for wild game, loved Esau, but Rebekah loved Jacob. [29] Once when Jacob was cooking some stew, Esau came in from the open country, famished. [30] He said to Jacob, "Quick, let me have some of that red stew! I'm famished!" (That is why he was also called Edom.) [31] Jacob replied, "First sell me your birthright." [32] "Look, I am about to die," Esau said. "What good is the birthright to me?" [33] But Jacob said, "Swear to me first." So he swore an oath to him, selling his birthright to Jacob. [34] Then Jacob gave Esau some bread and some lentil stew. He ate and drank, and then got up and left. So Esau despised his birthright. |
[1] Áp-ra-ham cưới một người vợ khác, tên là Kê-tu-ra.
[2] Người sanh cho Áp-ra-ham Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách. [3] Giốc-chan sanh Sê-ba và Ðê-đan; con cháu của Ðê-đan là họ A-chu-rim, họ Lê-tu-chim và họ Lê-um-mim. [4] Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Các người trên đây đều là dòng dõi của Kê-tu-ra. [5] Áp-ra-ham cho Y-sác hết thảy gia tài mình; còn cho các con dòng thứ những tiền của; [6] rồi, khi còn sống, người sai họ qua đông phương mà ở, cách xa con dòng chánh, là Y-sác. [7] Áp-ra-ham hưởng thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi; [8] người tuổi cao tác lớn và đã thỏa về đời mình, tắt hơi, được qui về nơi tổ tông. [9] Hai con trai người, Y-sác và Ích-ma-ên, chôn người trong hang đá Mặc-bê-la tại nơi đồng của Ép-rôn, con trai Sô-ha, người Hê-tít, nằm ngang Mam-rê. [10] Ấy là cái đồng mà lúc trước Áp-ra-ham mua lại của dân họ Hếch; nơi đó họ chôn Áp-ra-ham cùng Sa-ra, vợ người. [11] Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Ðức Giê-hô-va ban phước cho Y-sác con trai người. Y-sác ở gần bên cái giếng La-chai-Roi. [12] Ðây là dòng dõi của Ích-ma-ên, con trai của Áp-ra-ham, do nơi nàng A-ga, người Ê-díp-tô, con đòi của Sa-ra, đã sanh. [13] Và đây là trên các con trai của Ích-ma-ên, sắp thứ tự theo ngày ra đời: Con trưởng nam của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế sau Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, [14] Mích-ma, Ðu-ma, Ma-sa, [15] Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma. [16] Ðó là các con trai của Ích-ma-ên và tên của họ tùy theo làng và nơi đóng trại mà đặt. Ấy là mười hai vị công hầu trong dân tộc của họ. [17] Ích-ma-ên hưởng thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi, rồi tắt hơi mà qua đời, được qui về nơi tổ tông. [18] Dòng dõi người ở trước mặt anh em mình, từ Ha-vi-la cho đến Xu-xơ, đối ngang Ê-díp-tô, chạy qua A-si-ri. [19] Ðây là dòng dõi của Y-sác, con trai Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sanh Y-sác. [20] Vả, khi Y-sác được bốn mươi tuổi, thì cưới Rê-be-ca, con gái của Bê-tu-ên và em gái của La-ban, đều là dân A-ram, ở tại xứ Pha-đan-a-ram. [21] Y-sác khẩn cầu Ðức Giê-hô-va cho vợ mình, vì nàng son sẻ. Ðức Giê-hô-va cảm động lời khẩn cầu đó, nên cho Rê-be-ca thọ thai. [22] Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao đều nầy xảy đến làm chi? Ðoạn nàng đi hỏi Ðức Giê-hô-va. [23] Ðức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ. [24] Ðến ngày nàng phải sanh nở, nầy hai đứa sanh đôi trong bụng nàng ra. [25] Ðứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông; đặt tên là Ê-sau. [26] Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau; nên đặt tên là Gia-cốp. Khi sanh hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi. [27] Khi hai đứa trai nầy lớn lên, thì Ê-sau trở nên một thợ săn giỏi, thường giong ruổi nơi đồng ruộng; còn Gia-cốp là người hiền lành cứ ở lại trại. [28] Y-sác yêu Ê-sau, vì người có tánh ưa ăn thịt rừng; nhưng Rê-be-ca lại yêu Gia-cốp. [29] Một ngày kia, Gia-cốp đương nấu canh, Ê-sau ở ngoài đồng về lấy làm mệt mỏi lắm; [30] liền nói cùng Gia-cốp rằng: Em hãy cho anh ăn canh gì đỏ đó với, vì anh mệt mỏi lắm. Bởi cớ ấy, người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm. [31] Gia-cốp đáp rằng: Nay anh hãy bán quyền trưởng nam cho tôi đi. [32] Ê-sau đáp rằng: Nầy, anh gần thác, quyền trưởng nam để cho anh dùng làm chi? [33] Gia-cốp đáp lại rằng: Anh hãy thề trước đi. Người bèn thề; vậy, người bán quyền trưởng nam cho Gia-cốp. [34] Rồi, Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh và canh phạn đậu; ăn uống xong, người bèn đứng dậy đi. Vậy, Ê-sau khinh quyền trưởng nam là thế. |
Chapter 26
Chương 26
[1] Now there was a famine in the land-- besides the earlier famine of Abraham's time-- and Isaac went to Abimelech king of the Philistines in Gerar.
[2] The LORD appeared to Isaac and said, "Do not go down to Egypt; live in the land where I tell you to live. [3] Stay in this land for a while, and I will be with you and will bless you. For to you and your descendants I will give all these lands and will confirm the oath I swore to your father Abraham. [4] I will make your descendants as numerous as the stars in the sky and will give them all these lands, and through your offspring all nations on earth will be blessed, [5] because Abraham obeyed me and kept my requirements, my commands, my decrees and my laws." [6] So Isaac stayed in Gerar. [7] When the men of that place asked him about his wife, he said, "She is my sister," because he was afraid to say, "She is my wife." He thought, "The men of this place might kill me on account of Rebekah, because she is beautiful." [8] When Isaac had been there a long time, Abimelech king of the Philistines looked down from a window and saw Isaac caressing his wife Rebekah. [9] So Abimelech summoned Isaac and said, "She is really your wife! Why did you say, 'She is my sister'?" Isaac answered him, "Because I thought I might lose my life on account of her." [10] Then Abimelech said, "What is this you have done to us? One of the men might well have slept with your wife, and you would have brought guilt upon us." [11] So Abimelech gave orders to all the people: "Anyone who molests this man or his wife shall surely be put to death." [12] Isaac planted crops in that land and the same year reaped a hundredfold, because the LORD blessed him. [13] The man became rich, and his wealth continued to grow until he became very wealthy. [14] He had so many flocks and herds and servants that the Philistines envied him. [15] So all the wells that his father's servants had dug in the time of his father Abraham, the Philistines stopped up, filling them with earth. [16] Then Abimelech said to Isaac, "Move away from us; you have become too powerful for us." [17] So Isaac moved away from there and encamped in the Valley of Gerar and settled there. [18] Isaac reopened the wells that had been dug in the time of his father Abraham, which the Philistines had stopped up after Abraham died, and he gave them the same names his father had given them. [19] Isaac's servants dug in the valley and discovered a well of fresh water there. [20] But the herdsmen of Gerar quarreled with Isaac's herdsmen and said, "The water is ours!" So he named the well Esek, because they disputed with him. [21] Then they dug another well, but they quarreled over that one also; so he named it Sitnah. [22] He moved on from there and dug another well, and no one quarreled over it. He named it Rehoboth, saying, "Now the LORD has given us room and we will flourish in the land." [23] From there he went up to Beersheba. [24] That night the LORD appeared to him and said, "I am the God of your father Abraham. Do not be afraid, for I am with you; I will bless you and will increase the number of your descendants for the sake of my servant Abraham." [25] Isaac built an altar there and called on the name of the LORD. There he pitched his tent, and there his servants dug a well. [26] Meanwhile, Abimelech had come to him from Gerar, with Ahuzzath his personal adviser and Phicol the commander of his forces. [27] Isaac asked them, "Why have you come to me, since you were hostile to me and sent me away?" [28] They answered, "We saw clearly that the LORD was with you; so we said, 'There ought to be a sworn agreement between us'-- between us and you. Let us make a treaty with you [29] that you will do us no harm, just as we did not molest you but always treated you well and sent you away in peace. And now you are blessed by the LORD." [30] Isaac then made a feast for them, and they ate and drank. [31] Early the next morning the men swore an oath to each other. Then Isaac sent them on their way, and they left him in peace. [32] That day Isaac's servants came and told him about the well they had dug. They said, "We've found water!" [33] He called it Shibah, and to this day the name of the town has been Beersheba. [34] When Esau was forty years old, he married Judith daughter of Beeri the Hittite, and also Basemath daughter of Elon the Hittite. [35] They were a source of grief to Isaac and Rebekah. |
[1] Trừ cơn đói kém thứ nhứt trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần nữa. Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra.
[2] Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở lại xứ mà ta sẽ chỉ cho. [3] Hãy ngụ trong xứ nầy, ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi các xứ nầy và ta sẽ làm thành lời ta đã thề cùng Áp-ra-ham, cha ngươi. [4] Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ nầy; hết thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước; [5] vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và đã giữ điều ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của ta. [6] Vậy, Y-sác ở tại Ghê-ra. [7] Bởi nàng Rê-be-ca sắc-sảo dung nhan, nên khi dân xứ đó hỏi thăm vợ người, thì người đáp rằng: "Ấy là em gái tôi," e khi nói: "Ấy là vợ tôi," thì họ sẽ giết mình chăng. [8] Vả, người ngụ tại xứ đó cũng đã lâu; một ngày kia A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, ngó ngang qua cửa sổ, thấy Y-sác đương giỡn chơi cùng Rê-be-ca, vợ người, [9] bèn đòi Y-sác mà rằng: Quả thật là vợ ngươi đó; sao có nói: Ấy là em gái tôi? Y-sác đáp rằng: Vì tôi có thầm nói: Chớ khá vì nàng mà tôi phải bỏ mình. [10] A-bi-mê-léc hỏi: Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Ngộ có một người dân đến nằm cùng vợ ngươi, ngươi làm cho chúng ta phải phạm tội! [11] A-bi-mê-léc bèn truyền lịnh cho cả dân chúng rằng: Kẻ nào động đến người nầy, hay là vợ người nầy, thì sẽ bị xử tử. [12] Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho. [13] Người nên thạnh vượng, của cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên rất lớn. [14] Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân Phi-li-tin đem lòng ganh ghẻ. [15] Mấy cái giếng lúc trước đầy tớ của Áp-ra-ham, cha người, đã đào, bây giờ đều bị dân Phi-li-tin lấp đất lại hết. [16] A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh vượng hơn chúng ta bội phần. [17] Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó. [18] Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy giếng đó như tên của cha mình đã đặt. [19] Các đầy tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước mạch. [20] Nhưng bọn chăn chiên Ghê-ra tranh giành cùng bọn chăn chiên của Y-sác, mà rằng: Người đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sét. Vì bọn chăn chiên đó có tranh giành cùng mình. [21] Kế ấy, các đầy tớ đào một giếng khác, thì bị tranh giành nhau nữa; người đặt tên giếng nầy là Sít-na. [22] Ðoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt, mà rằng: Bây giờ Ðức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được rộng rãi, và ta sẽ đặng thịnh vượng trong xứ. [23] Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba. [24] Ðêm đó Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi tớ ta. [25] Y-sác lập một bàn thờ, cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va và đóng trại tại đó. Ðoạn, các đầy tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy. [26] Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan tổng binh mình, đi theo. [27] Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao còn đi đến tôi mà chi? [28] Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ ràng Ðức Giê-hô-va phù hộ người, nên nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết giao ước với người. [29] Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không động đến người, chỉ hậu đãi người và cho đi bình yên. Bây giờ người được Ðức Giê-hô-va ban phước cho. [30] Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống. [31] Qua ngày sau, chúng đậy sớm, lập lời thề với nhau. Rồi, Y-sác đưa các người đó đi về bình yên. [32] Cùng trong ngày đó, các đầy tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước. [33] Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba. Vì cớ đó nên tên thành ấy là Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay. [34] Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-e-ri, người Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít. [35] Hai dâu đó là một sự cay đắng lòng cho Y-sác và Rê-be-ca. |
Chapter 27
Chương 27
[1] When Isaac was old and his eyes were so weak that he could no longer see, he called for Esau his older son and said to him, "My son." "Here I am," he answered.
[2] Isaac said, "I am now an old man and don't know the day of my death. [3] Now then, get your weapons-- your quiver and bow-- and go out to the open country to hunt some wild game for me. [4] Prepare me the kind of tasty food I like and bring it to me to eat, so that I may give you my blessing before I die." [5] Now Rebekah was listening as Isaac spoke to his son Esau. When Esau left for the open country to hunt game and bring it back, [6] Rebekah said to her son Jacob, "Look, I overheard your father say to your brother Esau, [7] 'Bring me some game and prepare me some tasty food to eat, so that I may give you my blessing in the presence of the LORD before I die.' [8] Now, my son, listen carefully and do what I tell you: [9] Go out to the flock and bring me two choice young goats, so I can prepare some tasty food for your father, just the way he likes it. [10] Then take it to your father to eat, so that he may give you his blessing before he dies." [11] Jacob said to Rebekah his mother, "But my brother Esau is a hairy man, and I'm a man with smooth skin. [12] What if my father touches me? I would appear to be tricking him and would bring down a curse on myself rather than a blessing." [13] His mother said to him, "My son, let the curse fall on me. Just do what I say; go and get them for me." [14] So he went and got them and brought them to his mother, and she prepared some tasty food, just the way his father liked it. [15] Then Rebekah took the best clothes of Esau her older son, which she had in the house, and put them on her younger son Jacob. [16] She also covered his hands and the smooth part of his neck with the goatskins. [17] Then she handed to her son Jacob the tasty food and the bread she had made. [18] He went to his father and said, "My father." "Yes, my son," he answered. "Who is it?" [19] Jacob said to his father, "I am Esau your firstborn. I have done as you told me. Please sit up and eat some of my game so that you may give me your blessing." [20] Isaac asked his son, "How did you find it so quickly, my son?" "The LORD your God gave me success," he replied. [21] Then Isaac said to Jacob, "Come near so I can touch you, my son, to know whether you really are my son Esau or not." [22] Jacob went close to his father Isaac, who touched him and said, "The voice is the voice of Jacob, but the hands are the hands of Esau." [23] He did not recognize him, for his hands were hairy like those of his brother Esau; so he blessed him. [24] "Are you really my son Esau?" he asked. "I am," he replied. [25] Then he said, "My son, bring me some of your game to eat, so that I may give you my blessing." Jacob brought it to him and he ate; and he brought some wine and he drank. [26] Then his father Isaac said to him, "Come here, my son, and kiss me." [27] So he went to him and kissed him. When Isaac caught the smell of his clothes, he blessed him and said, "Ah, the smell of my son is like the smell of a field that the LORD has blessed. [28] May God give you of heaven's dew and of earth's richness-- an abundance of grain and new wine. [29] May nations serve you and peoples bow down to you. Be lord over your brothers, and may the sons of your mother bow down to you. May those who curse you be cursed and those who bless you be blessed." [30] After Isaac finished blessing him and Jacob had scarcely left his father's presence, his brother Esau came in from hunting. [31] He too prepared some tasty food and brought it to his father. Then he said to him, "My father, sit up and eat some of my game, so that you may give me your blessing." [32] His father Isaac asked him, "Who are you?" "I am your son," he answered, "your firstborn, Esau." [33] Isaac trembled violently and said, "Who was it, then, that hunted game and brought it to me? I ate it just before you came and I blessed him-- and indeed he will be blessed!" [34] When Esau heard his father's words, he burst out with a loud and bitter cry and said to his father, "Bless me-- me too, my father!" [35] But he said, "Your brother came deceitfully and took your blessing." [36] Esau said, "Isn't he rightly named Jacob? He has deceived me these two times: He took my birthright, and now he's taken my blessing!" Then he asked, "Haven't you reserved any blessing for me?" [37] Isaac answered Esau, "I have made him lord over you and have made all his relatives his servants, and I have sustained him with grain and new wine. So what can I possibly do for you, my son?" [38] Esau said to his father, "Do you have only one blessing, my father? Bless me too, my father!" Then Esau wept aloud. [39] His father Isaac answered him, "Your dwelling will be away from the earth's richness, away from the dew of heaven above. [40] You will live by the sword and you will serve your brother. But when you grow restless, you will throw his yoke from off your neck." [41] Esau held a grudge against Jacob because of the blessing his father had given him. He said to himself, "The days of mourning for my father are near; then I will kill my brother Jacob." [42] When Rebekah was told what her older son Esau had said, she sent for her younger son Jacob and said to him, "Your brother Esau is consoling himself with the thought of killing you. [43] Now then, my son, do what I say: Flee at once to my brother Laban in Haran. [44] Stay with him for a while until your brother's fury subsides. [45] When your brother is no longer angry with you and forgets what you did to him, I'll send word for you to come back from there. Why should I lose both of you in one day?" [46] Then Rebekah said to Isaac, "I'm disgusted with living because of these Hittite women. If Jacob takes a wife from among the women of this land, from Hittite women like these, my life will not be worth living." |
[1] Bởi Y-sác đã già, mắt làng chẳng thấy được nữa, bèn gọi Ê-sau, con trưởng nam, mà rằng: Hỡi con! Ê-sau thưa rằng: Có con đây.
[2] Người bèn nói rằng: Nầy, cha đã già rồi, chẳng biết ngày nào phải chết; [3] vậy bây giờ, cha xin con hãy lấy khí giới, ống tên và cung con, ra đồng săn thịt rừng cho cha, [4] dọn một món ngon tùy theo cha sở thích; rồi dâng lên cho cha ăn, đặng linh hồn cha chúc phước cho con trước khi chết. [5] Vả, đương khi Y-sác nói cùng Ê-sau con trai mình, thì Rê-be-ca có nghe. Ê-sau bèn ra đồng săn thịt rừng đặng đem về cho cha. [6] Rê-be-ca nói cùng Gia-cốp, con trai mình, rằng: Nầy, mẹ có nghe cha nói cùng Ê-sau, anh con, và dặn rằng: [7] Hãy đem thịt rừng về cho cha, dọn một món ngon cha ăn; đặng trước khi qua đời, cha sẽ chúc phước cho con trước mặt Ðức Giê-hô-va. [8] Vậy, con ơi! bây giờ, hãy nghe mẹ và làm theo lời mẹ biểu: [9] Hãy ra ngoài bầy, bắt hai dê con tốt, rồi mẹ sẽ dọn cho cha con một món ngon, tùy theo người sở thích; [10] con sẽ đem cho cha ăn, đặng người chúc phước con trước khi qua đời. [11] Gia-cốp thưa lại cùng mẹ rằng: Thưa mẹ, Ê-sau, anh con, có lông, còn con lại không. [12] Có lẽ cha sẽ rờ mình chăng, coi con như kẻ phỉnh gạt, thì con chắc lấy cho mình sự rủa sả, chớ chẳng phải sự chúc phước đâu. [13] Mẹ đáp rằng: Con ơi! xin sự rủa sả đó để cho mẹ chịu; hãy cứ nghe lời mẹ, ra bắt hai dê con. [14] Vậy, Gia-cốp đi bắt hai dê con, đem lại cho mẹ, làm món ngon, tùy theo cha sở thích. [15] Ðoạn Rê-be-ca lấy quần áo tốt nhứt của Ê-sau, con trưởng nam, sẵn để trong nhà, mà mặc vào cho Gia-cốp, con út mình; [16] rồi người lấy da dê con bao hai tay và cổ, vì tay và cổ Gia-cốp không có lông. [17] Rê-be-ca bèn để món ngon và bánh của mình đã dọn vào tay con út mình. [18] Gia-cốp bưng đến cha mình và nói rằng: Thưa cha! Y-sác đáp: Có cha đây; con là đứa nào đó? [19] Gia-cốp thưa: Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha; con đã làm theo lời cha dặn biểu; xin cha dậy, ngồi ăn lấy thịt săn của con, đặng linh hồn cha sẽ chúc phước cho con. [20] Y-sác hỏi rằng: Sao con đi săn được mau thế? Thưa rằng: Ấy nhờ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của cha xui tôi gặp mau vậy. [21] Y-sác nói cùng Gia-cốp rằng: Hỡi con! hãy lại gần đặng cha rờ thử xem có phải là Ê-sau, con của cha chăng? [22] Gia-cốp bèn lại gần Y-sác; người rờ và nói rằng: Tiếng nói thì của Gia-cốp, còn hai tay lại của Ê-sau. [23] Người chẳng nhận biết đặng vì hai tay cũng có lông như của anh, là Ê-sau. Vậy Y-sác chúc phước cho. [24] Người lại hỏi rằng: Ấy con thật là Ê-sau, con trai ta, phải chăng? Gia-cốp thưa: Phải, con đây. [25] Y-sác bèn nói: Hãy dọn cho cha ăn lấy thịt săn của con, đặng linh hồn cha chúc phước cho con. Gia-cốp dọn cho người ăn, cũng có đem rượu cho người uống nữa. [26] Rồi Y-sác cha người nói rằng: Hỡi con! hãy lại gần và hôn cha. [27] Gia-cốp bèn lại gần và hôn người. Y-sác đánh mùi thơm của áo con, liền chúc phước cho, và nói rằng: Nầy, mùi hương của con ta Khác nào mùi hương của cánh đồng mà Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho. [28] Cầu xin Ðức Chúa Trời cho con sương móc trên trời xuống, Ðược màu mỡ của đất, và dư dật lúa mì cùng rượu. [29] Muôn dân phải phục con, Các nước phải quì lạy trước mặt con! Hãy được quyền chủ các anh em, Các con trai của mẹ con phải quì lạy trước mặt con! Ai rủa sả con sẽ bị rủa sả lại, Ai cầu phước cho con, sẽ được ban phước lại! [30] Vừa khi Y-sác chúc phước cho Gia-cốp xuống, và vừa khi Gia-cốp lùi ra khỏi nơi cha mình, thì Ê-sau, anh người, đi săn trở về. [31] Người cũng dọn một món ngon, dâng lên cho cha và thưa rằng: Xin dậy, ngồi ăn thịt săn của con trai cha, đặng linh hồn cha chúc phước cho con. [32] Y-sác, cha người, hỏi: Con là đứa nào? Thưa rằng: Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha. [33] Y-sác lấy làm cảm động qua đỗi mà nói rằng: Vậy, còn đứa nào đã săn thịt rừng, và đã dâng lên cho cha đó? Trước khi con về, cha đã ăn hết rồi, và chúc phước cho nó; nó lại sẽ được ban phước vậy. [34] Vừa nghe dứt lời cha, thì Ê-sau la lên một tiếng rất lớn, và rất thảm thiết mà thưa cùng cha rằng: Cha ơi! xin hãy chúc phước cho con luôn nữa! [35] Nhưng Y-sác lại đáp: Em con đã dùng mưu kế đến cướp sự chúc phước của con rồi. [36] Ê-sau liền nói rằng: Có phải vì người ta gọi nó là Gia-cốp mà đó hai lần chiếm lấy vị tôi rồi chăng? Nó đã chiếm quyền trưởng nam tôi, và lại bây giờ còn chiếm sự phước lành của tôi nữa. Tiếp rằng: Cha chẳng có dành sự chúc phước chi cho tôi sao? [37] Y-sác đáp rằng: Nầy, cho đã lập nó lên làm chủ con, và đã cho các anh em làm tôi nó; và đã dự bị lúa mì và rượu cho nó. Vậy, cha sẽ làm chi cho con đây? [38] Ê-sau thưa rằng: Cha ơi! cha chỉ có sự chúc phước đó thôi sao? Hãy chúc phước cho con với, cha! Rồi Ê-sau cất tiếng lên khóc. [39] Y-sác cha người, đáp rằng: Nầy, nơi con ở sẽ thiếu màu mỡ của đất, Cùng sương-móc trên trời sa xuống. [40] Con sẽ nhờ gươm mới được sống. Và làm tôi tớ cho em con. Song khi con lưu lạc rày đó mai đây, Sẽ bẻ cái ách của em trên cổ con vậy. [41] Ê-sau trở lòng ghét Gia-cốp vì cớ cha mình chúc phước cho người, bèn nói thầm trong lòng rằng: Ngày tang của cha đã hầu gần; vậy, ta sẽ giết Gia-cốp, em ta, đi. [42] Họ đem lời Ê-sau, con lớn, thuật lại cùng Rê-be-ca, thì người sai gọi Gia-cốp, con út mình, mà nói rằng: Nầy, Ê-sau, anh con, toan giết con để báo thù. [43] Vậy, bây giờ, hỡi con, hãy nghe lời mẹ, đứng dậy, chạy trốn qua nhà La-ban, cậu con, tại Cha-ran, [44] và hãy ở cùng người ít lâu, cho đến lúc nào cơn giận của anh con qua hết. [45] Khi cơn giận anh con bỏ qua rồi, và nó quên việc con đã gây nên với nó, thì mẹ sẽ biểu con về. Có lẽ đâu mẹ phải chịu mất cả hai đứa trong một ngày ư? [46] Rê-be-ca nói cùng Y-sác rằng: Tôi đã chán, không muốn sống nữa, vì cớ mấy con gái họ Hếch. Nếu Gia-cốp cưới một trong mấy con gái họ Hếch mà làm vợ, tức một người con gái trong xứ như các dân đó; thôi, tôi còn sống mà chi? |
Chapter 28
Chương 28
[1] So Isaac called for Jacob and blessed him and commanded him: "Do not marry a Canaanite woman.
[2] Go at once to Paddan Aram, to the house of your mother's father Bethuel. Take a wife for yourself there, from among the daughters of Laban, your mother's brother. [3] May God Almighty bless you and make you fruitful and increase your numbers until you become a community of peoples. [4] May he give you and your descendants the blessing given to Abraham, so that you may take possession of the land where you now live as an alien, the land God gave to Abraham." [5] Then Isaac sent Jacob on his way, and he went to Paddan Aram, to Laban son of Bethuel the Aramean, the brother of Rebekah, who was the mother of Jacob and Esau. [6] Now Esau learned that Isaac had blessed Jacob and had sent him to Paddan Aram to take a wife from there, and that when he blessed him he commanded him, "Do not marry a Canaanite woman," [7] and that Jacob had obeyed his father and mother and had gone to Paddan Aram. [8] Esau then realized how displeasing the Canaanite women were to his father Isaac; [9] so he went to Ishmael and married Mahalath, the sister of Nebaioth and daughter of Ishmael son of Abraham, in addition to the wives he already had. [10] Jacob left Beersheba and set out for Haran. [11] When he reached a certain place, he stopped for the night because the sun had set. Taking one of the stones there, he put it under his head and lay down to sleep. [12] He had a dream in which he saw a stairway resting on the earth, with its top reaching to heaven, and the angels of God were ascending and descending on it. [13] There above it stood the LORD, and he said: "I am the LORD, the God of your father Abraham and the God of Isaac. I will give you and your descendants the land on which you are lying. [14] Your descendants will be like the dust of the earth, and you will spread out to the west and to the east, to the north and to the south. All peoples on earth will be blessed through you and your offspring. [15] I am with you and will watch over you wherever you go, and I will bring you back to this land. I will not leave you until I have done what I have promised you." [16] When Jacob awoke from his sleep, he thought, "Surely the LORD is in this place, and I was not aware of it." [17] He was afraid and said, "How awesome is this place! This is none other than the house of God; this is the gate of heaven." [18] Early the next morning Jacob took the stone he had placed under his head and set it up as a pillar and poured oil on top of it. [19] He called that place Bethel, though the city used to be called Luz. [20] Then Jacob made a vow, saying, "If God will be with me and will watch over me on this journey I am taking and will give me food to eat and clothes to wear [21] so that I return safely to my father's house, then the LORD will be my God [22] and this stone that I have set up as a pillar will be God's house, and of all that you give me I will give you a tenth." |
[1] Y-sác bèn gọi Gia-cốp, chúc phước cho và dặn rằng: Con chớ chọn một người vợ nào hết trong bọn con gái Ca-na-an.
[2] Hãy đứng dậy, đi qua xứ Pha-đan-a-ram, tại nhà Bê-tu-ên, ông ngoại con, và cưới ở đó một người vợ trong các con gái của La-ban, là cậu con. [3] Cầu xin Ðức Chúa Trời toàn năng ban phước cho con, làm con sanh sản, thêm nhiều và trở nên một đám dân đông. [4] Cầu xin Ngài ban cho con và dòng dõi con phước lành của Áp-ra-ham, hầu cho xứ con đã kiều ngụ sẽ làm sản nghiệp cho con, tức xứ Ngài đã ban cho Áp-ra-ham! [5] Rồi Y-sác sai Gia-cốp đi qua xứ Pha-đan-a-ram, đến nhà La-ban, con trai Bê-tu-ên, vốn người A-ram, lại là anh của Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cốp và Ê-sau. [6] Ê-sau thấy Y-sác đã chúc phước cho Gia-cốp, và sai đi qua xứ Pha-đan-a-ram đặng cưới vợ; và trong lúc đương chúc phước có dặn rằng: Chớ cưới vợ trong bọn con gái Ca-na-an; [7] lại đã thấy Gia-cốp vâng lời cha me đi qua xứ Pha-đan-a-ram đó, [8] thì biết rằng bọn con gái Ca-na-an không vừa ý Y-sác, cha mình; [9] nên người bèn đi đến nhà Ích-ma-ên (ngoài hai người vợ đã có rồi) cưới thêm nàng Ma-ba-lát, con gái của Ích-ma-ên, cháu nội của Áp-ra-ham và em của Nê-ba-giốt. [10] Gia-cốp từ Bê-e-Sê-ba đi đến Cha-ran, [11] tới một chỗ kia, mặt trời đã khuất, thì qua đêm tại đó. Người lấy một hòn đá làm gối đầu, và nằm ngủ tại đó; [12] bèn chiêm bao thấy một cái thang bắc từ dưới đất, đầu đến tận trời, các thiên sứ của Ðức Chúa Trời đi lên xuống trên thang đó. [13] Nầy, Ðức Giê-hô-va ngự trên đầu thang mà phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cùng là Ðức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi đương nằm ngủ đây. [14] Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát bụi trên mặt đất, tràn ra đến đông tây nam bắc, và các chi họ thế gian sẽ nhờ ngươi và dòng dõi ngươi mà được phước. [15] Nầy, ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và đem ngươi về xứ nầy; vì ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi ta làm xong những điều ta đã hứa cùng ngươi. [16] Gia-cốp thức giấc, nói rằng: Thật Ðức Giê-hô-va hiện có trong nơi đây mà tôi không biết! [17] Người bắt sợ và nói rằng: Chốn nầy đáng kinh khủng thay thật là đền Ðức Chúa Trời, thật là cửa của trời! [18] Người dậy sớm, lấy hòn đá của mình dùng gối đầu, dựng đứng lên làm cây trụ, đổ dầu lên trên chót trụ đó; [19] rồi đặt tên chốn nầy là Bê-tên; còn nguyên khi trước tên thành là Lu-xơ. [20] Gia-cốp bèn khấn vái rằng: Nếu Ðức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc, [21] và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Ðức Giê-hô-va sẽ là Ðức Chúa Trời tôi. [22] Hòn đá đã dùng làm trụ đây sẽ là đền Ðức Chúa Trời, Và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi. |
Chapter 29
Chương 29
[1] Then Jacob continued on his journey and came to the land of the eastern peoples.
[2] There he saw a well in the field, with three flocks of sheep lying near it because the flocks were watered from that well. The stone over the mouth of the well was large. [3] When all the flocks were gathered there, the shepherds would roll the stone away from the well's mouth and water the sheep. Then they would return the stone to its place over the mouth of the well. [4] Jacob asked the shepherds, "My brothers, where are you from?" "We're from Haran," they replied. [5] He said to them, "Do you know Laban, Nahor's grandson?" "Yes, we know him," they answered. [6] Then Jacob asked them, "Is he well?" "Yes, he is," they said, "and here comes his daughter Rachel with the sheep." [7] "Look," he said, "the sun is still high; it is not time for the flocks to be gathered. Water the sheep and take them back to pasture." [8] "We can't," they replied, "until all the flocks are gathered and the stone has been rolled away from the mouth of the well. Then we will water the sheep." [9] While he was still talking with them, Rachel came with her father's sheep, for she was a shepherdess. [10] When Jacob saw Rachel daughter of Laban, his mother's brother, and Laban's sheep, he went over and rolled the stone away from the mouth of the well and watered his uncle's sheep. [11] Then Jacob kissed Rachel and began to weep aloud. [12] He had told Rachel that he was a relative of her father and a son of Rebekah. So she ran and told her father. [13] As soon as Laban heard the news about Jacob, his sister's son, he hurried to meet him. He embraced him and kissed him and brought him to his home, and there Jacob told him all these things. [14] Then Laban said to him, "You are my own flesh and blood." After Jacob had stayed with him for a whole month, [15] Laban said to him, "Just because you are a relative of mine, should you work for me for nothing? Tell me what your wages should be." [16] Now Laban had two daughters; the name of the older was Leah, and the name of the younger was Rachel. [17] Leah had weak eyes, but Rachel was lovely in form, and beautiful. [18] Jacob was in love with Rachel and said, "I'll work for you seven years in return for your younger daughter Rachel." [19] Laban said, "It's better that I give her to you than to some other man. Stay here with me." [20] So Jacob served seven years to get Rachel, but they seemed like only a few days to him because of his love for her. [21] Then Jacob said to Laban, "Give me my wife. My time is completed, and I want to lie with her." [22] So Laban brought together all the people of the place and gave a feast. [23] But when evening came, he took his daughter Leah and gave her to Jacob, and Jacob lay with her. [24] And Laban gave his servant girl Zilpah to his daughter as her maidservant. [25] When morning came, there was Leah! So Jacob said to Laban, "What is this you have done to me? I served you for Rachel, didn't I? Why have you deceived me?" [26] Laban replied, "It is not our custom here to give the younger daughter in marriage before the older one. [27] Finish this daughter's bridal week; then we will give you the younger one also, in return for another seven years of work." [28] And Jacob did so. He finished the week with Leah, and then Laban gave him his daughter Rachel to be his wife. [29] Laban gave his servant girl Bilhah to his daughter Rachel as her maidservant. [30] Jacob lay with Rachel also, and he loved Rachel more than Leah. And he worked for Laban another seven years. [31] When the LORD saw that Leah was not loved, he opened her womb, but Rachel was barren. [32] Leah became pregnant and gave birth to a son. She named him Reuben, for she said, "It is because the LORD has seen my misery. Surely my husband will love me now." [33] She conceived again, and when she gave birth to a son she said, "Because the LORD heard that I am not loved, he gave me this one too." So she named him Simeon. [34] Again she conceived, and when she gave birth to a son she said, "Now at last my husband will become attached to me, because I have borne him three sons." So he was named Levi. [35] She conceived again, and when she gave birth to a son she said, "This time I will praise the LORD." So she named him Judah. Then she stopped having children. |
[1] Ðoạn, Gia-cốp lên đường, đi đến xứ của dân Ðông phương.
[2] Người nhìn xem, thấy một cái giếng trong đồng ruộng, gần đó có ba bầy chiên nằm nghỉ, vì nơi nầy là chốn người ta cho các bầy chiên uống nước. Hòn đá đậy trên miệng giếng rất lớn. [3] Các bầy chiên đều hiệp lại đó, rồi họ lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho các bầy uống nước; đoạn, lăn đá lại chỗ cũ, đậy trên miệng giếng. [4] Gia-cốp hỏi mấy tay chăn chiên rằng: Hỡi các anh! các anh ở đâu đây? Bọn đó đáp rằng: Chúng tôi ở Cha-ran đến. [5] Người hỏi: Các anh có biết La-ban, con trai Na-cô, chăng? Ðáp rằng: Chúng tôi biết. [6] Lại hỏi: Người đó được mạnh giỏi chăng? Ðáp rằng: Người vẫn được mạnh giỏi, và nầy, Ra-chên, con gái người, dương đi đến cùng bầy chiên kia. [7] Ngươi nói: Nầy, trời hãy còn sớm, chưa phải là giờ nhóm hiệp các súc vật; vậy, các anh hãy cho bầy chiên uống nước, rồi thả đi ăn lại đi. [8] Ðáp rằng: Chúng tôi làm như vậy chẳng được; phải đợi các bầy hiệp lại đủ hết rồi, bấy giờ mới lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho bầy uống nước được. [9] Vả, đương lúc người còn nói chuyện cùng bọn đó, thì Ra-chên dắt bầy chiên của cha nàng đến, vi nàng vốn là người chăn chiên. [10] Khi vừa thấy Ra-chên, con gài La-ban, cậu mình, thì người liền lại gần lăn hòn đá ra khỏi miệng giếng, cho bầy chiên của La-ban, cậu mình, uống nước. [11] Gia-cốp hôn Ra-chên, cất tiếng lên khóc; [12] rồi nói cho nàng biết rằng mình là bà con với cha nàng, tức con trai của Rê-bê-ca. Nàng bèn chạy về thuật lại cho cha hay. [13] Vừa khi nghe nói Gia-cốp, con trai của em gái mình, thì La-ban chạy đến trước mặt người, ôm choàng lấy mà hôn, rồi mới vào nhà. Gia-cốp thuật lại cho La-ban nghe các việc đã xảy qua. [14] La-ban bèn đáp rằng: Thật vậy, cháu là cốt nhục của cậu; rồi Gia-cốp ở một tháng cùng cậu. [15] Ðoạn, La-ban nói cùng Gia-cốp rằng: vì cớ cháu là bà con của cậu, cháu giúp công không cho cậu thôi sao? Tiền công bao nhiêu hãy nói cho cậu biết. [16] Vả, La-ban có hai con gái, con lớn tên là Lê-a; con nhỏ tên là Ra-chên. [17] Mắt Lê-a yếu, còn Ra-chên hình dung đẹp đẽ, vẻ mặt tốt tươi. [18] Gia-cốp yêu Ra-chên nên nói rằng: Vì nàng Ra-chên, con út cậu, tôi sẽ giúp việc trong bảy năm. [19] La-ban trả lời rằng: Thà cậu gả nó cho cháu hơn là gả cho một người khác; hãy ở với cậu. [20] Vậy, Gia-cốp vì Ra-chên, phải giúp việc trong bảy năm: nhưng bởi yêu nàng, nên coi bảy năm bằng chừng đôi ba bữa. [21] Kế đó, Gia-cốp nói cùng La-ban rằng: Hạn tôi đã mãn rồi; đâu! xin cậu hãy giao vợ tôi lại đặng tôi đến gần cùng nàng. [22] La-ban bèn mời các người trong xóm, bày một bữa tiệc; [23] đến chiều tối, bắt Lê-a, con gái mình, đưa cho Gia-cốp, rồi chàng đến cùng nàng. [24] La-ban lại cắt con đòi Xinh-ba theo hầu Lê-a, con gái mình. [25] Sáng bữa sau, mới biết là nàng Lê-a, thì Gia-cốp hỏi La-ban rằng: Cậu đã đãi tôi cách chi vậy? Có phải vì Ra-chên mà tôi mới giúp việc cho nhà cậu chăng? Sao cậu lừa-gạt tôi? [26] La-ban đáp rằng: Phong tục ở đây chẳng phải được gả em út trước, rồi chị cả sau. [27] Hãy ở với đứa nầy trọn một tuần đi, rồi ta sẽ gả luôn đứa kia cho; về đứa kia cháu phải giúp công cho cậu thêm bảy năm nữa. [28] Gia-cốp theo lời, ở cùng Lê-a trọn một tuần, rồi La-ban gả Ra-chên con gái mình, cho chàng, [29] và cắt con đòi Bi-la theo hầu Ra-chên con gái mình. [30] Gia-cốp đi lại cùng Ra-chên, thương yêu nàng hơn Lê-a. Vậy, người ở giúp việc nhà La-ban thêm bảy năm nữa. [31] Ðức Giê-hô-va thấy Lê-a bị ghét, bèn cho nàng sanh sản; còn Ra-chên lại son sẻ. [32] Lê-a thọ thai, sanh một con trai, đặt tên Ru-bên; vì nói rằng: Ðức Giê-hô-va đã thấy sự cực khổ tôi; bây giờ chồng sẽ yêu mến tôi. [33] Nàng thọ thai nữa và sanh một con trai, đặt tên Si-mê-ôn; vì nói rằng. Ðức Giê-hô-va có nghe biết tôi bị ghét, nên cho thêm đứa này. [34] Nàng thọ thai nữa và sanh một con trai; nàng rằng: Lần nầy chồng sẽ dính díu cùng tôi, vì tôi đã sanh cho người ba con trai; bởi cớ đó, đặt tên là Lê-vi. [35] Nàng thọ thai nữa, sanh một con trai, và nói rằng: Lần nầy tôi ngợi khen Ðức Giê-hô-va; vì cớ ấy, đặt tên là Giu-da. Ðoạn, nàng thôi thai nghén. |
Chapter 30
Chương 30
[1] When Rachel saw that she was not bearing Jacob any children, she became jealous of her sister. So she said to Jacob, "Give me children, or I'll die!"
[2] Jacob became angry with her and said, "Am I in the place of God, who has kept you from having children?" [3] Then she said, "Here is Bilhah, my maidservant. Sleep with her so that she can bear children for me and that through her I too can build a family." [4] So she gave him her servant Bilhah as a wife. Jacob slept with her, [5] and she became pregnant and bore him a son. [6] Then Rachel said, "God has vindicated me; he has listened to my plea and given me a son." Because of this she named him Dan. [7] Rachel's servant Bilhah conceived again and bore Jacob a second son. [8] Then Rachel said, "I have had a great struggle with my sister, and I have won." So she named him Naphtali. [9] When Leah saw that she had stopped having children, she took her maidservant Zilpah and gave her to Jacob as a wife. [10] Leah's servant Zilpah bore Jacob a son. [11] Then Leah said, "What good fortune!" So she named him Gad. [12] Leah's servant Zilpah bore Jacob a second son. [13] Then Leah said, "How happy I am! The women will call me happy." So she named him Asher. [14] During wheat harvest, Reuben went out into the fields and found some mandrake plants, which he brought to his mother Leah. Rachel said to Leah, "Please give me some of your son's mandrakes." [15] But she said to her, "Wasn't it enough that you took away my husband? Will you take my son's mandrakes too?" "Very well," Rachel said, "he can sleep with you tonight in return for your son's mandrakes." [16] So when Jacob came in from the fields that evening, Leah went out to meet him. "You must sleep with me," she said. "I have hired you with my son's mandrakes." So he slept with her that night. [17] God listened to Leah, and she became pregnant and bore Jacob a fifth son. [18] Then Leah said, "God has rewarded me for giving my maidservant to my husband." So she named him Issachar. [19] Leah conceived again and bore Jacob a sixth son. [20] Then Leah said, "God has presented me with a precious gift. This time my husband will treat me with honor, because I have borne him six sons." So she named him Zebulun. [21] Some time later she gave birth to a daughter and named her Dinah. [22] Then God remembered Rachel; he listened to her and opened her womb. [23] She became pregnant and gave birth to a son and said, "God has taken away my disgrace." [24] She named him Joseph, and said, "May the LORD add to me another son." [25] After Rachel gave birth to Joseph, Jacob said to Laban, "Send me on my way so I can go back to my own homeland. [26] Give me my wives and children, for whom I have served you, and I will be on my way. You know how much work I've done for you." [27] But Laban said to him, "If I have found favor in your eyes, please stay. I have learned by divination that the LORD has blessed me because of you." [28] He added, "Name your wages, and I will pay them." [29] Jacob said to him, "You know how I have worked for you and how your livestock has fared under my care. [30] The little you had before I came has increased greatly, and the LORD has blessed you wherever I have been. But now, when may I do something for my own household?" [31] "What shall I give you?" he asked. "Don't give me anything," Jacob replied. "But if you will do this one thing for me, I will go on tending your flocks and watching over them: [32] Let me go through all your flocks today and remove from them every speckled or spotted sheep, every dark-colored lamb and every spotted or speckled goat. They will be my wages. [33] And my honesty will testify for me in the future, whenever you check on the wages you have paid me. Any goat in my possession that is not speckled or spotted, or any lamb that is not dark-colored, will be considered stolen." [34] "Agreed," said Laban. "Let it be as you have said." [35] That same day he removed all the male goats that were streaked or spotted, and all the speckled or spotted female goats (all that had white on them) and all the dark-colored lambs, and he placed them in the care of his sons. [36] Then he put a three-day journey between himself and Jacob, while Jacob continued to tend the rest of Laban's flocks. [37] Jacob, however, took fresh-cut branches from poplar, almond and plane trees and made white stripes on them by peeling the bark and exposing the white inner wood of the branches. [38] Then he placed the peeled branches in all the watering troughs, so that they would be directly in front of the flocks when they came to drink. When the flocks were in heat and came to drink, [39] they mated in front of the branches. And they bore young that were streaked or speckled or spotted. [40] Jacob set apart the young of the flock by themselves, but made the rest face the streaked and dark-colored animals that belonged to Laban. Thus he made separate flocks for himself and did not put them with Laban's animals. [41] Whenever the stronger females were in heat, Jacob would place the branches in the troughs in front of the animals so they would mate near the branches, [42] but if the animals were weak, he would not place them there. So the weak animals went to Laban and the strong ones to Jacob. [43] In this way the man grew exceedingly prosperous and came to own large flocks, and maidservants and menservants, and camels and donkeys. |
[1] Ra-chên thấy mình chẳng sanh con cho Gia-cốp, thì đem lòng ghen ghét chị, nói cùng Gia-cốp rằng: Hãy cho tôi có con, bằng không, tôi chết.
[2] Gia-cốp nổi giận cùng Ra-chên mà rằng: Há ta được thay quyền Ðức Giê-hô-va, mà không cho ngươi sanh sản sao? [3] Ra-chên rằng: Nầy con đòi Bi-la của tôi, hãy lại cùng nó, hầu cho nó sanh đẻ thay cho tôi, đặng phần tôi bởi nó cũng có con nữa. [4] Vậy, Ra-chên đưa Bi-la làm hầu Gia-cốp, và người đi lại cùng nàng. [5] Bi-la thọ thai, sanh một con trai cho Gia-cốp. [6] Ra-chên rằng: Ðức Chúa Trời đã xét tôi công bình, nhậm lời tôi, nên cho tôi một con trai; vì cớ ấy, nàng đặt tên đứa trai đó là Ðan. [7] Bi-la, con đòi của Ra-chên, thọ thai nữa, và sanh một con trai thứ nhì cho Gia-cốp. [8] Ra-chên rằng: Tôi đã hết sức chống cự với chị tôi, và tôi được thắng; vì cớ ấy, nàng đặt tên đứa trai nầy là Nép-ta-li. [9] Lê-a thấy mình thôi sanh sản, bèn bắt Xinh-ba, con đòi mình, làm hầu cho Gia-cốp. [10] Xinh-ba, con đòi của Lê-a, sanh một con trai cho Gia-cốp. [11] Lê-a rằng: Phước biết dường bao! rồi đặt tên đứa trai đó là Gát. [12] Xinh ba, con đòi của Lê-a, sanh một con trai thứ nhì cho Gia-cốp; [13] thì Lê-a rằng: Tôi lấy làm vui mừng dường bao! vì các con gái sẽ xưng ta được phước; nàng bèn đặt tên đứa trai đó là A-se. [14] Nhằm mùa gặt lúa mì, Ru-bên đi ra đồng gặp được những trái phong già, đem về dâng cho Lê-a, mẹ mình. Ra-chên bèn nói cùng Lê-a rằng: Xin chị hãy cho tôi những trái phong già của con chị đó. [15] Ðáp rằng: Cướp chồng tao há là một việc nhỏ sao, nên mầy còn muốn lấy trái phong già của con trai tao nữa? Ra-chên rằng: Ừ thôi! chồng ta hãy ở cùng chị tối đêm nay, đổi cho trái phong già của con chị đó. [16] Ðến chiều, Gia-cốp ở ngoài đồng về, thì Lê-a đến trước mặt người mà nói rằng: Chàng hãy lại cùng tôi, vì tôi đã dùng trái phong già của con tôi chịu thuê được chàng; vậy, đêm đó người lại nằm cùng nàng. [17] Ðức Chúa Trời nhậm lời Lê-a, nàng thọ thai và sanh cho Gia-cốp một con trai thứ năm. [18] Nàng rằng: Ðức Chúa Trời đã đền công tôi, vì cớ tôi đã trao con đòi cho chồng; vậy, nàng đặt tên đứa con trai đó là Y-sa-ca. [19] Lê-a thọ thai nữa, sanh một con trai thứ sáu cho Gia-cốp, [20] bèn nói rằng: Ðức Chúa Trời ban cho tôi một vật quí báu; lần nầy chồng sẽ ở cùng tôi, vì đã sanh cho người sáu con trai rồi. Nàng đặt tên đứa con trai nầy là Sa-bu-lôn. [21] Kế đó, nàng sanh một con gái, đặt tên là Ði-na. [22] Ðức Chúa Trời nhớ lại Ra-chên, bèn nhậm lời và cho nàng sanh sản. [23] Nàng thọ thai, sanh một con trai, mà rằng: Ðức Chúa Trời đã rửa sự xấu hổ cho tôi rồi; [24] bèn đặt tên đứa trai đó là Giô-sép; lại nói rằng: Cầu xin Ðức Giê-hô-va thêm cho một con trai nữa! [25] Khi Ra-chên đã sanh Giô-sép thì Gia-cốp thưa cùng La-ban rằng: Xin cậu cho tôi thôi, đặng trở về quê hương tôi; [26] xin giao vợ và con lại cho tôi, mà tôi đã đặng vì cớ giúp cậu, để tôi đi; bởi cậu cũng biết rằng tôi đã giúp công việc cho cậu thể nào. [27] La-ban đáp rằng: Ước gì cậu được nhờ ơn cháu! Cậu cũng đoán rõ ràng Ðức Giê-hô-va đã vì cháu mà ban phước cho cậu vậy. [28] Lại nói rằng: Cháu hãy định công giá cháu đi, rồi cậu sẽ trả cho! [29] Gia-cốp đáp: Cậu biết tôi giúp đỡ cậu thể nào, và về tay tôi bầy súc vật cậu được ra sao. [30] Trước khi tôi đến, súc vật của cậu thật ít, nhưng từ khi tôi đến ở, thì thêm nhiều quá bội. Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho cậu từ khi tôi bước chơn vào nhà nầy; bây giờ biết chừng nào tôi sẽ được lo việc nhà tôi? [31] La-ban rằng: Cậu sẽ cho cháu cái gì bây giờ? Ðáp rằng: Sẽ chẳng cho tôi chi cả. Nếu thuận theo lời nầy, thì tôi sẽ cho ăn và chăn bầy súc vật cậu nữa: [32] Ngày nay tôi sẽ đi kiểm soát các bầy chiên và bầy dê của cậu; trong bầy chiên bầy dê, hễ con nào có rằn, có đốm, cùng chiên sắc đen, thì tôi sẽ để riêng ra; ấy sẽ là phần công giá của tôi đó. [33] Một mai cậu đi xem xét công giá tôi, thì lòng ngay thẳng tôi sẽ làm chứng trước mặt cậu. Hễ ở về phần bên tôi, các con dê nào không có rằn và đốm, các chiên con nào không có sắc đen, thì sẽ cho là ăn cắp. [34] La-ban đáp: Ừ thôi! được như lời cháu nói. [35] Chánh ngày đó, La-ban liền để riêng các dê đực có sọc, có đốm, các dê cái đó rằn, có đốm, các vật nào có đém trắng và các chiên con có sắc đen, giao cho mấy con trai mình; [36] rồi để Gia-cốp cùng mình ở cách xa nhau chừng ba ngày đường; Gia-cốp bèn chăn bầy súc vật của La-ban chỉ còn lại. [37] Ðoạn, Gia-cốp lấy nhành bạch dương, nhành bồ đào và nhành bá-tiên tươi, lột vỏ để bày lằn da trắng ở trong ra. [38] Người để những nhành đã lột vỏ trong máng trước mặt con chiên, là nơi các thú đó đến uống; khi đến uống nước thì con chiên có giao hiệp nhau. [39] Các con chiên ngó thấy những nhành đó mà giao hiệp nhau thì sanh chiên con có sọc, có rằn và có đốm. [40] Gia-cốp để riêng chiên con ra, rồi để chiên cái trong bầy của La-ban trước mặt các con có sọc và có sắc đen; nhưng bầy mình thì riêng ra, không để gần bầy của La-ban. [41] Vả, mọi lần các con chiên mạnh mập giao hiệp, thì Gia-cốp để các nhành đó dưới mắt trong máng uống nước, đặng chúng nó đối nhành mà giao hiệp cùng nhau. [42] Nhưng khi nào con chiên gầy ốm, thì người không để nhành như vậy; thế thì, các chiên con gầy ốm để về phần La-ban, còn chiên con mạnh mập lại về phần Gia-cốp. [43] Vậy, người trở nên rất giàu, có nhiều bầy súc vật, tôi trai, tớ gái, lạc đà và lừa. |
Chapter 31
Chương 31
[1] Jacob heard that Laban's sons were saying, "Jacob has taken everything our father owned and has gained all this wealth from what belonged to our father."
[2] And Jacob noticed that Laban's attitude toward him was not what it had been. [3] Then the LORD said to Jacob, "Go back to the land of your fathers and to your relatives, and I will be with you." [4] So Jacob sent word to Rachel and Leah to come out to the fields where his flocks were. [5] He said to them, "I see that your father's attitude toward me is not what it was before, but the God of my father has been with me. [6] You know that I've worked for your father with all my strength, [7] yet your father has cheated me by changing my wages ten times. However, God has not allowed him to harm me. [8] If he said, 'The speckled ones will be your wages,' then all the flocks gave birth to speckled young; and if he said, 'The streaked ones will be your wages,' then all the flocks bore streaked young. [9] So God has taken away your father's livestock and has given them to me. [10] "In breeding season I once had a dream in which I looked up and saw that the male goats mating with the flock were streaked, speckled or spotted. [11] The angel of God said to me in the dream, 'Jacob.' I answered, 'Here I am.' [12] And he said, 'Look up and see that all the male goats mating with the flock are streaked, speckled or spotted, for I have seen all that Laban has been doing to you. [13] I am the God of Bethel, where you anointed a pillar and where you made a vow to me. Now leave this land at once and go back to your native land.'" [14] Then Rachel and Leah replied, "Do we still have any share in the inheritance of our father's estate? [15] Does he not regard us as foreigners? Not only has he sold us, but he has used up what was paid for us. [16] Surely all the wealth that God took away from our father belongs to us and our children. So do whatever God has told you." [17] Then Jacob put his children and his wives on camels, [18] and he drove all his livestock ahead of him, along with all the goods he had accumulated in Paddan Aram, to go to his father Isaac in the land of Canaan. [19] When Laban had gone to shear his sheep, Rachel stole her father's household gods. [20] Moreover, Jacob deceived Laban the Aramean by not telling him he was running away. [21] So he fled with all he had, and crossing the River, he headed for the hill country of Gilead. [22] On the third day Laban was told that Jacob had fled. [23] Taking his relatives with him, he pursued Jacob for seven days and caught up with him in the hill country of Gilead. [24] Then God came to Laban the Aramean in a dream at night and said to him, "Be careful not to say anything to Jacob, either good or bad." [25] Jacob had pitched his tent in the hill country of Gilead when Laban overtook him, and Laban and his relatives camped there too. [26] Then Laban said to Jacob, "What have you done? You've deceived me, and you've carried off my daughters like captives in war. [27] Why did you run off secretly and deceive me? Why didn't you tell me, so I could send you away with joy and singing to the music of tambourines and harps? [28] You didn't even let me kiss my grandchildren and my daughters good-by. You have done a foolish thing. [29] I have the power to harm you; but last night the God of your father said to me, 'Be careful not to say anything to Jacob, either good or bad.' [30] Now you have gone off because you longed to return to your father's house. But why did you steal my gods?" [31] Jacob answered Laban, "I was afraid, because I thought you would take your daughters away from me by force. [32] But if you find anyone who has your gods, he shall not live. In the presence of our relatives, see for yourself whether there is anything of yours here with me; and if so, take it." Now Jacob did not know that Rachel had stolen the gods. [33] So Laban went into Jacob's tent and into Leah's tent and into the tent of the two maidservants, but he found nothing. After he came out of Leah's tent, he entered Rachel's tent. [34] Now Rachel had taken the household gods and put them inside her camel's saddle and was sitting on them. Laban searched through everything in the tent but found nothing. [35] Rachel said to her father, "Don't be angry, my lord, that I cannot stand up in your presence; I'm having my period." So he searched but could not find the household gods. [36] Jacob was angry and took Laban to task. "What is my crime?" he asked Laban. "What sin have I committed that you hunt me down? [37] Now that you have searched through all my goods, what have you found that belongs to your household? Put it here in front of your relatives and mine, and let them judge between the two of us. [38] "I have been with you for twenty years now. Your sheep and goats have not miscarried, nor have I eaten rams from your flocks. [39] I did not bring you animals torn by wild beasts; I bore the loss myself. And you demanded payment from me for whatever was stolen by day or night. [40] This was my situation: The heat consumed me in the daytime and the cold at night, and sleep fled from my eyes. [41] It was like this for the twenty years I was in your household. I worked for you fourteen years for your two daughters and six years for your flocks, and you changed my wages ten times. [42] If the God of my father, the God of Abraham and the Fear of Isaac, had not been with me, you would surely have sent me away empty-handed. But God has seen my hardship and the toil of my hands, and last night he rebuked you." [43] Laban answered Jacob, "The women are my daughters, the children are my children, and the flocks are my flocks. All you see is mine. Yet what can I do today about these daughters of mine, or about the children they have borne? [44] Come now, let's make a covenant, you and I, and let it serve as a witness between us." [45] So Jacob took a stone and set it up as a pillar. [46] He said to his relatives, "Gather some stones." So they took stones and piled them in a heap, and they ate there by the heap. [47] Laban called it Jegar Sahadutha, and Jacob called it Galeed. [48] Laban said, "This heap is a witness between you and me today." That is why it was called Galeed. [49] It was also called Mizpah, because he said, "May the LORD keep watch between you and me when we are away from each other. [50] If you mistreat my daughters or if you take any wives besides my daughters, even though no one is with us, remember that God is a witness between you and me." [51] Laban also said to Jacob, "Here is this heap, and here is this pillar I have set up between you and me. [52] This heap is a witness, and this pillar is a witness, that I will not go past this heap to your side to harm you and that you will not go past this heap and pillar to my side to harm me. [53] May the God of Abraham and the God of Nahor, the God of their father, judge between us." So Jacob took an oath in the name of the Fear of his father Isaac. [54] He offered a sacrifice there in the hill country and invited his relatives to a meal. After they had eaten, they spent the night there. [55] Early the next morning Laban kissed his grandchildren and his daughters and blessed them. Then he left and returned home. |
[1] Gia-cốp được nghe lời các con La-ban nói rằng: Gia-cốp đã lấy hết gia tài cha ta, và vì nhờ của cha ta, nên mới được giàu có dường ấy.
[2] Gia-cốp cũng để ý coi nét mặt cậu, nhận biết rằng người chẳng đối ở với mình như trước nữa. [3] Ðức Giê-hô-va phán cùng Gia-cốp rằng: Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi, chốn bà con ngươi, ta sẽ phù hộ ngươi. [4] Gia-cốp bèn sai người gọi Ra-chên và Lê-a đến nơi cầm bầy súc vật của mình ngoài đồng, [5] và nói cùng họ rằng: Ta thấy sắc mặt cha hai ngươi đối cùng ta chẳng còn như trước nữa, nhưng nhờ Ðức Chúa Trời của cha ta phù hộ ta. [6] Chánh hai ngươi cũng biết rằng ta đã giúp cha hai ngươi hết sức, [7] còn cha hai ngươi lại khinh bạc và mười lần thay đổi công giá ta; nhưng Ðức Chúa Trời không cho phép người làm hại ta chút nào. [8] Khi người dạy rằng: Các con chiên có đốm dùng làm công giá ngươi, quả các con chiên đều sanh con ra có sọc. [9] Thế thì, Ðức Chúa Trời đã bắt súc vật của cha hai ngươi cho ta đó! [10] Ðương trong lúc chiên giao hiệp nhau, ta nhướng mắt lên, chiêm bao thấy các chiên đực đương giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm. [11] Thiên sứ Ðức Chúa Trời phán cùng ta trong mộng rằng: Hỡi Gia-cốp! Ta bèn thưa: Có tôi đây. [12] Thiên sứ rằng: Hỡi nhướng mắt lên mà nhìn: hết thảy chiên đực đương giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm; vì ta đã thấy cách La-ban ăn ở cùng ngươi rồi. [13] Ta đây là Ðức Chúa Trời của Bê-tên, tức nơi ngươi đã thoa dầu đầu cây trụ và đã khấn vái ta. Bây giờ, hãy đứng dậy, ra khỏi xứ bầy và trở về xứ của bà con ngươi. [14] Ra-chên và Lê-a đáp cùng người mà rằng: Chúng tôi còn một phần chi hay là cơ nghiệp chi nơi nhà cha chúng tôi chăng? [15] Vì người đã gả bán chúng tôi và ăn xài hết tiền bạc bán nữa, há người chẳng đãi chúng tôi như người dưng ư? [16] Các tài vật mà Ðức Chúa Trời đoạt nơi tay cha chúng tôi tức là của chúng tôi và của con cái chúng tôi. Vậy bây giờ, chàng hãy làm theo mọi lời Ðức Chúa Trời đã phải dạy. [17] Gia-cốp bèn đứng dậy, đỡ vợ và con lên lưng lạc đà, [18] dẫn hết thảy súc vật và của cải mình, tức súc vật mình đã gây dựng ở Pha-đan-a-ram, đặng trở về cùng Y-sác, cha mình, ở Ca-na-an. [19] Trong lúc La-ban mắc đi hớt lông chiên người, thì Ra-chên ăn cắp các pho tượng thờ trong nhà của cha mình. [20] Gia-cốp gạt La-ban, vì không nói rằng, mình muốn đi trốn. [21] Vậy, người đứng dậy, đem theo hết thảy tài vật mình, trốn đi ngang qua sông, thẳng tuốt về núi Ga-la-át. [22] Ðến ngày thứ ba, người ta học lại cùng La-ban rằng Gia-cốp đã trốn đi rồi. [23] Người bèn đem các anh em mình đuổi theo Gia-cốp trong bảy ngày đường, và theo kịp tại núi Ga-la-át. [24] Nhưng trong cơn chiêm bao lúc ban đêm, Ðức Chúa Trời đến cùng La-ban, người A-ram, mà phán rằng: Dầu lành dầu dữ, thế nào ngươi khá giữ mình đừng nói chi cùng Gia-cốp hết. [25] Vậy, La-ban theo kịp Gia-cốp. Vả, Gia-cốp đương đóng trại trên núi; La-ban và các anh em người cũng đóng trại trên núi Ga-la-át. [26] La-ban nói cùng Gia-cốp rằng: Cháu đã làm chi vậy? Cháu đã gạt cậu và dẫn mấy đứa gái cậu như phu tù giặc. [27] Sao trốn nhẹm, gạt và không cho cậu hay trước? Có lẽ cậu đưa đi rất vui vẻ, tiếng hát, tiếng đờn và tiếng trống phụ đưa. [28] Cháu làm cách dại dột vậy, không để cho cậu hôn con trai và con gái cậu. [29] Tay cậu có đủ quyền làm hại cháu; nhưng Ðức Chúa Trời của cha cháu đã mách bảo cùng cậu tối hôm qua rằng: Dầu lành dầu dữ, ngươi khá giữ mình đừng nói chi cùng Gia-cốp hết. [30] Bây giờ, vì lòng cháu mong mỏi về nhà cha cháu, nên đã ra đi; nhưng cớ sao cháu lại ăn cắp các pho tượng cậu? [31] Gia-cốp đáp rằng: Vì cớ tôi e cậu bắt hai người con gái lại chăng. [32] Nhưng tìm nơi ai được các pho tượng của cậu, thì ai đó sẽ bị chết đi! Tại trước mặt các anh em chúng ta, cậu hãy kiểm soát các món nơi tôi đi, và hãy lấy vật chi thuộc về cậu. Vả, Gia-cốp vốn không hay rằng Ra-chên đã trộm mấy pho tượng đó. [33] Vậy, La-ban vào trại Gia-cốp, trại Lê-a, trại hai người đòi, chẳng tìm được chi cả. Ðoạn, ở trại Lê-a bước ra đi vào trại Ra-chên. [34] Vả, Ra-chên có lấy mấy pho tượng đó, giấu dưới bành lạc đà, rồi ngồi lên trên. La-ban soát lục khắp trại chẳng gặp pho tượng. [35] Nàng bèn thưa cùng cha rằng: Vì trong mình con có việc riêng của đờn bà, nên đứng dậy rước chẳng được; xin chúa chớ giận con chi hết. Người kiếm, nhưng chẳng thấy pho tượng đâu hết. [36] Gia-cốp bèn nổi giận rầy lộn cùng La-ban, mà rằng: Tôi có án gì, tội gì, mà cậu hằm hằm đuổi theo như vậy! [37] Cậu đã soát lục các đồ hành lý tôi, có kiếm được món chi thuộc về nhà cậu chăng? Hãy đem món đó ra trước mặt anh em tôi cùng anh em cậu, đặng họ xét đoán đôi ta. [38] Kìa, đã hai mươi năm tôi ăn ở nơi nhà cậu, chiên cùng dê cậu nào có sảo thai, và tôi chẳng hề ăn thịt chiên đực của bầy cậu bao giờ; [39] cũng chẳng hề đem về cho cậu một con nào bị xé; bằng có, chính tôi chịu đền đó thôi. Cậu cớ đòi luôn những con bị ăn cắp ban ngày và ăn trộm ban đêm. [40] Ban ngày tôi chịu nắng nồng, ban đêm chịu lạnh lùng, ngủ nào có an giấc được đâu. [41] Ðó trong hai mươi năm tôi ở tại nhà cậu là thế; trong mười bốn năm giúp việc, để được hai con gái cậu, và sáu năm đặng lãnh lấy bầy súc vật của cậu, mà cậu lại còn thay đổi mười lần công giá tôi. [42] Nếu Ðức Chúa Trời của cha tôi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, là Ðấng mà Y-sác kính sợ, không phù hộ tôi, chắc bây giờ cậu đuổi tôi ra tay không, Ðức Chúa Trời đã xem thấy nỗi đau-khổ tôi cùng công việc hai tay tôi làm, nên đêm qua Ngài đã xét công bình rồi đó. [43] La-ban đáp cùng Gia-cốp mà rằng: Các đứa gái nầy là con của cậu; các đứa trẻ nầy là trẻ của cậu; các bầy súc vật tức là bầy súc vật của cậu, và các vật chi cháu thấy được tức là của cậu hết; ngày nay cậu sẽ làm chi được cùng các con gái hai là các cháu cậu đó? [44] Vậy bây giờ, hè! chúng ta kết-ước cùng nhau, để dùng làm chứng cho cậu và cháu. [45] Gia-cốp lấy một hòn đá, dựng đứng lên làm trụ; [46] và nói cùng các anh em mình rằng: Hãy lượm góp đá lại. Chúng bèn góp đá lại, chất thành một đống, rồi ngồi lên trên ăn bữa. [47] La-ban đặt trên đống đá đó là Y-ê-ga Sa-ha-du-ta; còn Gia-cốp kêu là Ga-lét. [48] La-ban nói rằng: Ðống đá nầy ngày nay làm chứng cho cậu và cháu đó. Cho nên chúng gọi là Ga-lét. [49] Mà cũng gọi là Mích-ba, vì La-ban có nói thêm rằng: Khi chúng ta phân cách nhau, cầu xin Ðức Giê-hô-va coi sóc cậu và cháu. [50] Nếu cháu hành hạ các con gái cậu, nếu cưới vợ khác nữa, thì hãy giữ mình! Chẳng phải người thường soi xét ta đâu, bèn là Ðức Chúa Trời làm chứng cho chúng ta vậy. [51] La-ban lại nói cùng Gia-cốp rằng: Nầy đống đá, nầy cây trụ mình cậu đã dựng lên giữa cậu và cháu đây. [52] Ðống đá nầy và cây trụ nầy làm chứng rằng cậu chẳng qua khỏi đây, đi đến nơi cháu, và cháu cũng chẳng vượt khỏi đây, đi đến nơi cậu, trong khi có ý muốn làm hại nhau. [53] Cầu xin Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Na-cô, Ðức Chúa Trời của cha các người đó đoán xét cho chúng ta! Gia-cốp chỉ Ðấng của Y-sác, cha mình, kính sợ mà thề. [54] Ðoạn, người dâng một của lễ tại trên núi, và mời các anh em mình dùng bánh. Vậy, chúng dùng bánh, rồi ở ban đêm trên núi. [55] La-ban dậy sớm, hôn các con trai và các con gái mình, và chúc phước cho, rồi đi trở về nhà mình. |
Chapter 32
Chương 32
[1] Jacob also went on his way, and the angels of God met him.
[2] When Jacob saw them, he said, "This is the camp of God!" So he named that place Mahanaim. [3] Jacob sent messengers ahead of him to his brother Esau in the land of Seir, the country of Edom. [4] He instructed them: "This is what you are to say to my master Esau: 'Your servant Jacob says, I have been staying with Laban and have remained there till now. [5] I have cattle and donkeys, sheep and goats, menservants and maidservants. Now I am sending this message to my lord, that I may find favor in your eyes.'" [6] When the messengers returned to Jacob, they said, "We went to your brother Esau, and now he is coming to meet you, and four hundred men are with him." [7] In great fear and distress Jacob divided the people who were with him into two groups, and the flocks and herds and camels as well. [8] He thought, "If Esau comes and attacks one group, the group that is left may escape." [9] Then Jacob prayed, "O God of my father Abraham, God of my father Isaac, O LORD, who said to me, 'Go back to your country and your relatives, and I will make you prosper,' [10] I am unworthy of all the kindness and faithfulness you have shown your servant. I had only my staff when I crossed this Jordan, but now I have become two groups. [11] Save me, I pray, from the hand of my brother Esau, for I am afraid he will come and attack me, and also the mothers with their children. [12] But you have said, 'I will surely make you prosper and will make your descendants like the sand of the sea, which cannot be counted.'" [13] He spent the night there, and from what he had with him he selected a gift for his brother Esau: [14] two hundred female goats and twenty male goats, two hundred ewes and twenty rams, [15] thirty female camels with their young, forty cows and ten bulls, and twenty female donkeys and ten male donkeys. [16] He put them in the care of his servants, each herd by itself, and said to his servants, "Go ahead of me, and keep some space between the herds." [17] He instructed the one in the lead: "When my brother Esau meets you and asks, 'To whom do you belong, and where are you going, and who owns all these animals in front of you?' [18] then you are to say, 'They belong to your servant Jacob. They are a gift sent to my lord Esau, and he is coming behind us.'" [19] He also instructed the second, the third and all the others who followed the herds: "You are to say the same thing to Esau when you meet him. [20] And be sure to say, 'Your servant Jacob is coming behind us.'" For he thought, "I will pacify him with these gifts I am sending on ahead; later, when I see him, perhaps he will receive me." [21] So Jacob's gifts went on ahead of him, but he himself spent the night in the camp. [22] That night Jacob got up and took his two wives, his two maidservants and his eleven sons and crossed the ford of the Jabbok. [23] After he had sent them across the stream, he sent over all his possessions. [24] So Jacob was left alone, and a man wrestled with him till daybreak. [25] When the man saw that he could not overpower him, he touched the socket of Jacob's hip so that his hip was wrenched as he wrestled with the man. [26] Then the man said, "Let me go, for it is daybreak." But Jacob replied, "I will not let you go unless you bless me." [27] The man asked him, "What is your name?" "Jacob," he answered. [28] Then the man said, "Your name will no longer be Jacob, but Israel, because you have struggled with God and with men and have overcome." [29] Jacob said, "Please tell me your name." But he replied, "Why do you ask my name?" Then he blessed him there. [30] So Jacob called the place Peniel, saying, "It is because I saw God face to face, and yet my life was spared." [31] The sun rose above him as he passed Peniel, and he was limping because of his hip. [32] Therefore to this day the Israelites do not eat the tendon attached to the socket of the hip, because the socket of Jacob's hip was touched near the tendon. |
[1] Gia-cốp cứ đi đường, có thiên sứ Ðức Chúa Trời gặp người.
[2] Khi Gia-cốp thấy các vị nầy, nói rằng: Ấy là trại quân của Ðức Chúa Trời! Nên người đặt tên chỗ đó là Ma-ha-na-im. [3] Gia-cốp sai sứ giả đến trước cùng Ê-sau, anh mình, trong xứ Sê-i-rơ thuộc về địa-phận Ê-đôm; [4] người bèn dặn rằng: Các ngươi hãy thưa cùng Ê-sau, chúa ta như vầy: Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa, có nói như vầy rằng: Tôi đã ngụ tại nhà La-ban đến ngày nay; [5] có bò, lừa, chiên, tôi trai, tớ gái; vậy, xin sai đi nói cho chúa hay trước, hầu cho nhờ được ơn trước mặt chúa tôi. [6] Các sứ giả trở về nói cùng Gia-cốp rằng: Chúng tôi đã đi đến Ê-sau, anh của chủ; nầy người đương đem bốn trăm người đến để rước chủ. [7] Gia-cốp rất sợ hãi và sầu não, bèn chia các dân đi theo, cùng các bầy chiên, bò, lạc đà ra làm hai đội, mà rằng: [8] Nếu Ê-sau đến hãm đánh một trong hai đội, thì đội còn lại sẽ thoát được. [9] Ðoạn, Gia-cốp cầu rằng: Hỡi Ðức Chúa Trời của tổ phụ Áp-ra-ham tôi! Ðức Chúa Trời của cha Y-sác tôi, tức là Ðức Giê-hô-va! Ngài có phán dạy tôi rằng: Hãy trở về xứ ngươi và nơi bà con ngươi, rồi ta sẽ làm ơn cho ngươi! [10] Tôi lấy làm hèn mọn không đáng chịu các ân huệ và các điều thành thực mà Ngài đã làm cho kẻ tôi tớ Ngài; vì lúc trước khi qua sông Giô-đanh chỉ có cây gậy tôi, mà ngày nay tôi lại trở nên hai đội quân nầy. [11] Vậy, cầu xin Ðức Chúa Trời giải cứu tôi khỏi tay Ê-sau, anh tôi, vì e người đến đánh tôi và đánh luôn mẹ với con nữa. [12] Vả, Ngài có nói rằng: Quả thật vậy, ta sẽ làm ơn cho ngươi, và làm cho dòng dõi ngươi đông như cát bãi biển, người ta sẽ không biết sao đếm được, vì đông đúc quá. [13] Người ở ban đêm tại đó, lấy các vật có hiện trong tay để làm một của lễ dâng cho Ê-sau, anh mình, [14] là hai trăm dê cái và hai chục dê đực; hai trăm chiên cái và hai chục chiên đực; [15] ba chục lạc đà cái có con đương bú, bốn chục bò cái và mười bò đực; hai chục con lừa cái và mười lừa con. [16] Rồi, giao mỗi bầy riêng ra nơi tay đầy tớ mình và dặn rằng: Các ngươi hãy đi trước ta và dẫn bầy nầy cách một khoảng đến bầy kia. [17] Người dặn tên dẫn bầy đi trước hết như vầy: Khi Ê-sau, sanh ta, gặp và hỏi ngươi rằng: Ngươi ở với ai, đi đâu, và bầy súc vật trước mặt ngươi đó thuộc về ai? [18] thì hãy thưa rằng: Của Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa; ấy là một lễ gởi dâng cho Ê-sau, chúa tôi; và nầy, chánh mình người đương theo sau. [19] Gia-cốp cũng dặn y lời cho tên dẫn bầy thứ nhì, thứ ba và hết thảy người theo coi chừng các bầy, và lại nói: Khi gặp Ê-sau, các ngươi hãy nhớ lời đó, [20] và nói như vầy: Nầy, Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa, đương theo sau chúng tôi. Vì người thầm nghĩ rằng: Mình đem lễ nầy dâng trước cho Ê-sau nguôi giận đã, rồi mình sẽ giáp mặt sau; có lẽ người tiếp rước mình một cách thuận hiệp đó. [21] Vậy, lễ nầy đem đi trước, còn người, đêm đó ở lại trại. [22] Ban đêm, người thức dậy, dẫn hai vợ, hai tên đòi và mười một đứa con mình đi qua rạch Gia-bốc. [23] Người đem họ qua rạch, và hết thảy của cải mình qua nữa. [24] Vả, một mình Gia-cốp ở lại; thì có một người vật lộn với mình được rạng đông. [25] Khi người đó thấy mình không thắng nổi, bèn đánh vào xương hông Gia-cốp; xương hông liền trặt trong khi vật lộn. [26] Người đó bèn nói: Trời đã rạng đông rồi; thôi để cho ta đi; nhưng Gia-cốp đáp rằng: Tôi chẳng cho người đi đâu, nếu người không ban phước cho tôi. [27] Người đó hỏi: Tên ngươi là chi? Ðáp rằng: Tên tôi là Gia-cốp. [28] Người lại nói: Tên ngươi sẽ chẳng làm Gia-cốp nữa, nhưng tên là Y-sơ-ra-ên, vì ngươi đã có vật lộn cùng Ðức Chúa Trời và người ta; ngươi đều được thắng. [29] Gia-cốp hỏi: Xin cho tôi biết tên người. Ðáp rằng: Làm sao ngươi hỏi tên ta? Rồi người nầy ban phước cho Gia-cốp tại đó. [30] Gia-cốp đặt tên chỗ đó là Phê-ni-ên, và nói rằng: Tôi đã thấy Ðức Chúa Trời đối mặt cùng tôi và linh hồn tôi được giải cứu. [31] Khi qua nơi Phi-ni-ên, thấy mặt trời mọc rồi; và người đi giẹo cẳng. [32] Bởi cớ đó, cho đến ngày nay dân Y-sơ-ra-ên chẳng bao giờ ăn gân bắp vế của lối xương hông; vì người đó có đánh vào xương hông Gia-cốp, nơi gân của bắp vế. |
Chapter 33
Chương 33
[1] Jacob looked up and there was Esau, coming with his four hundred men; so he divided the children among Leah, Rachel and the two maidservants.
[2] He put the maidservants and their children in front, Leah and her children next, and Rachel and Joseph in the rear. [3] He himself went on ahead and bowed down to the ground seven times as he approached his brother. [4] But Esau ran to meet Jacob and embraced him; he threw his arms around his neck and kissed him. And they wept. [5] Then Esau looked up and saw the women and children. "Who are these with you?" he asked. Jacob answered, "They are the children God has graciously given your servant." [6] Then the maidservants and their children approached and bowed down. [7] Next, Leah and her children came and bowed down. Last of all came Joseph and Rachel, and they too bowed down. [8] Esau asked, "What do you mean by all these droves I met?" "To find favor in your eyes, my lord," he said. [9] But Esau said, "I already have plenty, my brother. Keep what you have for yourself." [10] "No, please!" said Jacob. "If I have found favor in your eyes, accept this gift from me. For to see your face is like seeing the face of God, now that you have received me favorably. [11] Please accept the present that was brought to you, for God has been gracious to me and I have all I need." And because Jacob insisted, Esau accepted it. [12] Then Esau said, "Let us be on our way; I'll accompany you." [13] But Jacob said to him, "My lord knows that the children are tender and that I must care for the ewes and cows that are nursing their young. If they are driven hard just one day, all the animals will die. [14] So let my lord go on ahead of his servant, while I move along slowly at the pace of the droves before me and that of the children, until I come to my lord in Seir." [15] Esau said, "Then let me leave some of my men with you." "But why do that?" Jacob asked. "Just let me find favor in the eyes of my lord." [16] So that day Esau started on his way back to Seir. [17] Jacob, however, went to Succoth, where he built a place for himself and made shelters for his livestock. That is why the place is called Succoth. [18] After Jacob came from Paddan Aram, he arrived safely at the city of Shechem in Canaan and camped within sight of the city. [19] For a hundred pieces of silver, he bought from the sons of Hamor, the father of Shechem, the plot of ground where he pitched his tent. [20] There he set up an altar and called it El Elohe Israel. |
[1] Gia-cốp nhướng mắt lên và nhìn, kìa, Ê-sau dẫn bốn trăm người đi đến. Người bèn chia các con cho Lê-a, Ra-chên, và cho hai tên đòi;
[2] sắp hai tên đòi và con cái họ ở trước; kế đến Lê-a và con cái nàng; Ra-chên cùng Giô-sép ở sau chót. [3] Còn người, thì đi trước họ và sấp mình xuống đất bảy lần cho đến khi tới gần anh mình. [4] Nhưng Ê-sau chạy đến trước mặt người, ôm choàng cổ mà hôn, rồi hai anh em đều khóc. [5] Ðoạn, Ê-sau nhướng mắt lên thấy mấy người đờn bà và con cái, thì hỏi rằng: Các người mà em có đó là ai? Ðáp rằng: Ấy là con cái mà Ðức Chúa Trời đã cho kẻ tôi tớ anh. [6] Hai tên đòi và con cái họ lại gần người, sấp mình xuống. [7] Lê-a và các con cái nàng cũng lại gần, sấp mình xuống; đoạn, Ra-chên và Giô-sép lại gần, và sấp mình xuống. [8] Ê-sau hỏi: Toán quân anh đã gặp đi trước đó, em tính làm chi? Ðáp rằng: Ấy để nhờ được ơn trước mặt chúa tôi. [9] Ê-sau nói: Hỡi em! anh đã được đủ rồi; vậy, hãy lấy lại vật chi của em đi. [10] Thưa rằng: Xin anh, không. Nếu em được ơn trước mặt anh, hãy nhậm lấy lễ vật bởi tay em làm ra đi; vì em thấy được mặt anh khác nào người ta thấy được mặt Ðức Chúa Trời, và anh đã đẹp lòng tiếp rước em. [11] Xin anh hãy nhậm lấy lễ vật em đã dâng cho anh, vì Ðức Chúa Trời cho em đầy dẫy ân huệ, và em có đủ hết. Người nài xin Ê-sau quá đến đỗi phải chịu nhậm lấy. [12] Ê-sau nói: Hè, ta hãy lên đường! Anh sẽ đi trước em. [13] Gia-cốp đáp: Chúa biết rằng các đứa trả yếu lắm, và em lại mắc coi chừng chiên và bò cái đương có con bú; nếu ép đi mau chỉ trong một ngày, chắc cả bầy phải chết hết. [14] Xin chúa hãy đi trước kẻ tôi tớ chúa, còn tôi sẽ đi tới chậm chậm theo bước một của súc vật đi trước và của các trẻ, cho đến chừng nào tới nhà chúa tại xứ Sê-i-rơ. [15] Ê-sau nói: Vậy, anh xin để lại cùng em một vài người tùy tùng của anh. Gia-cốp đáp rằng: Chi vậy? miễn em được nhờ ơn trước mặt chúa thôi! [16] Nội ngày đó, Ê-sau bắt đường trở về Sê-i-rơ. [17] Gia-cốp đi đến Su-cốt; bèn cất một nhà cho mình ở, và mấy cái lều cho súc vật; cho nên họ đặt tên chốn nầy là Su-cốt. [18] Gia-cốp ở xứ Pha-ran-a-ram đến thành Si-chem thuộc về xứ Ca-na-an, được bình an. Người đóng tại trước thành, [19] bèn mua miếng đất chỗ người đóng trại, giá một trăm miếng bạc của con Hê-mô, cha Si-chem. [20] Nơi đó người lập một bàn thờ, đặt trên là En-Ên-ô-hê-Y-sơ-ra-ên. |
Chapter 34
Chương 34
[1] Now Dinah, the daughter Leah had borne to Jacob, went out to visit the women of the land.
[2] When Shechem son of Hamor the Hivite, the ruler of that area, saw her, he took her and violated her. [3] His heart was drawn to Dinah daughter of Jacob, and he loved the girl and spoke tenderly to her. [4] And Shechem said to his father Hamor, "Get me this girl as my wife." [5] When Jacob heard that his daughter Dinah had been defiled, his sons were in the fields with his livestock; so he kept quiet about it until they came home. [6] Then Shechem's father Hamor went out to talk with Jacob. [7] Now Jacob's sons had come in from the fields as soon as they heard what had happened. They were filled with grief and fury, because Shechem had done a disgraceful thing in Israel by lying with Jacob's daughter-- a thing that should not be done. [8] But Hamor said to them, "My son Shechem has his heart set on your daughter. Please give her to him as his wife. [9] Intermarry with us; give us your daughters and take our daughters for yourselves. [10] You can settle among us; the land is open to you. Live in it, trade in it, and acquire property in it." [11] Then Shechem said to Dinah's father and brothers, "Let me find favor in your eyes, and I will give you whatever you ask. [12] Make the price for the bride and the gift I am to bring as great as you like, and I'll pay whatever you ask me. Only give me the girl as my wife." [13] Because their sister Dinah had been defiled, Jacob's sons replied deceitfully as they spoke to Shechem and his father Hamor. [14] They said to them, "We can't do such a thing; we can't give our sister to a man who is not circumcised. That would be a disgrace to us. [15] We will give our consent to you on one condition only: that you become like us by circumcising all your males. [16] Then we will give you our daughters and take your daughters for ourselves. We'll settle among you and become one people with you. [17] But if you will not agree to be circumcised, we'll take our sister and go." [18] Their proposal seemed good to Hamor and his son Shechem. [19] The young man, who was the most honored of all his father's household, lost no time in doing what they said, because he was delighted with Jacob's daughter. [20] So Hamor and his son Shechem went to the gate of their city to speak to their fellow townsmen. [21] "These men are friendly toward us," they said. "Let them live in our land and trade in it; the land has plenty of room for them. We can marry their daughters and they can marry ours. [22] But the men will consent to live with us as one people only on the condition that our males be circumcised, as they themselves are. [23] Won't their livestock, their property and all their other animals become ours? So let us give our consent to them, and they will settle among us." [24] All the men who went out of the city gate agreed with Hamor and his son Shechem, and every male in the city was circumcised. [25] Three days later, while all of them were still in pain, two of Jacob's sons, Simeon and Levi, Dinah's brothers, took their swords and attacked the unsuspecting city, killing every male. [26] They put Hamor and his son Shechem to the sword and took Dinah from Shechem's house and left. [27] The sons of Jacob came upon the dead bodies and looted the city where their sister had been defiled. [28] They seized their flocks and herds and donkeys and everything else of theirs in the city and out in the fields. [29] They carried off all their wealth and all their women and children, taking as plunder everything in the houses. [30] Then Jacob said to Simeon and Levi, "You have brought trouble on me by making me a stench to the Canaanites and Perizzites, the people living in this land. We are few in number, and if they join forces against me and attack me, I and my household will be destroyed." [31] But they replied, "Should he have treated our sister like a prostitute?" |
[1] Nàng Ði-na, con gái của Lê-a sanh cho Gia-cốp, đi ra thăm bọn con gái của xứ đó.
[2] Si-chem, con trai Hê-mô, người Hê-vít, hoàng tử xứ đó, thấy nàng, thì cướp đi, nằm với nàng và làm điếm nhục nàng. [3] Tâm hồn chàng vấn-vít cùng Ði-na, con gái Gia-cốp, thương mến con gái tơ đó, lấy lời ngon ngọt nói cùng nàng. [4] Si-chem nói cùng Hê-mô, cha mình, rằng: Hãy cho tôi con gái nầy làm vợ. [5] Vả, Gia-cốp hay được rằng chàng làm hư danh giá Ði-na, con gái mình, nhưng các con trai mình mắc ở ngoài đồng cùng súc vật, nên người làm thinh đến khi họ trở về. [6] Lúc đó, Hê-mê, cha Si-chem, đến cùng Gia-cốp đặng nói chuyện cùng người. [7] Các con trai Gia-cốp ở ngoài đồng trở về, vừa hay được việc ấy, bèn nổi nóng và giận lắm, vì việc ô danh mà Si-chem đã xui cho họ Y-sơ-ra-ên, nằm cùng con gái của Gia-cốp, là việc chẳng bao giờ nên làm. [8] Hê-mô nói cùng họ rằng: Tâm hồn Si-chem, con trai tôi, đã dan-díu cùng con gái các ông; xin hãy gả nàng cho nó làm vợ. [9] Hãy kết sui-gia cùng nhau; các ông gả con gái cho chúng tôi, rồi cưới các con gái chúng tôi lại. [10] Hãy ở cùng chúng tôi; xứ sẵn dành cho các ông; hãy ở, buôn bán và dựng cơ nghiệp tại đó. [11] Si-chem thưa cùng cha và các anh em của người con gái rằng: Xin cho tôi được ơn trước mặt các ông, và điều chi các ông nói, tôi xin nạp cho. [12] Xin hãy đòi một lễ cưới cho lớn, sính nghi cho cao, tôi xin nạp theo y lời các ông nói; nhưng hãy gả con gái đó cho tôi làm vợ. [13] Các con trai Gia-cốp đáp lại cùng Si-chem và Hê-mô, cha chàng, cùng dùng mưu nói chuyện với họ, vì Si-chem đã làm mất danh giá của Ði-na, em gái mình. [14] Các người ấy nói rằng: Gả em gái chúng tôi cho ai chẳng chịu phép cắt bì, ấy là một việc chúng tôi làm không được, vì sẽ là một nỗi nhuốc nha cho chúng tôi vậy. [15] Chúng tôi sẽ nhậm lời các ông được, là khi nào các ông trở nên giống như chúng tôi, tức là mọi người nam chịu phép cắt bì; [16] vậy, chúng tôi sẽ gả con gái chúng tôi cho các ông, và sẽ cưới con gái các ông lại; đoạn ta sẽ ở chung nhau, thành ra một dân mà thôi. [17] Còn nếu không khứng nghe theo lời, và không chịu phép cắt bì, thì chúng tôi bắt con gái lại và đi ở nơi khác. [18] Bao nhiêu lời họ nói làm cho đẹp dạ Hê-mô và Si-chem, con trai người. [19] Chàng trẻ tuổi đó không ngần ngại các việc họ đã định, vì con gái của Gia-cốp đẹp lòng chàng. Vả, chàng đây là một người quí trọng hơn mọi người trong nhà cha mình. [20] Vậy, Hê-mô và Si-chem, con trai người, đi đến cửa thành mình, nói cùng dân trong thành như vầy: [21] Các người đó ăn ở hòa thuận giữa vòng chúng ta; vậy cho họ ở trong xứ đặng buôn bán. Nầy, xứ cũng rộng cho họ ở; chúng ta sẽ cưới con gái họ làm vợ, và gả các con gái chúng ta lại. [22] Nhưng họ bằng lòng ở cùng chúng ta đặng thành một dân, miễn khi nào các người nam trong bọn mình phải chịu phép cắt bì chính như mọi người nam của họ vậy. [23] Thế thì, há rằng các súc vật, các tài sản và các bầy của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? thôi, ta hãy nhận theo họ điều đó đi, để họ ở chung cùng chúng ta. [24] Mọi người đi ra cửa thành mình đều nghe theo lời Hê-mô và Si-chem, con trai người, và hết thảy người nam đi ra cửa thành mình đều chịu phép cắt bì. [25] Ðến ngày thứ ba, khi mọi người đương đau đớn, thì hai con trai Gia-cốp, là Si-mê-ôn và Lê-vi, anh nàng Ði-na, cầm mỗi người một thanh gươm, thừa khi ai nấy yên ổn, xông vào thành giết hết thảy người nam. [26] Hai người lại lấy gươm giết Hê-mô và Si-chem, con trai người, đem nàng Ði-na ra khỏi nhà Si-chem, rồi đi. [27] Vì cớ họ làm mất danh giá em gái mình, nên các con trai Gia-cốp xông vào những xác chết và phá cướp thành; [28] bắt các bầy chiên, bò, lừa, cùng vật chi trong thành và ngoài đồng; [29] cướp đem đi hết tài vật, các con trẻ và đờn bà, cùng mọi vật chi ở trong nhà vậy. [30] Gia-cốp bèn nói cùng Si-mê-ôn và Lê-vi rằng: Bay xui cho tao bối rối, làm cho dân xứ nầy, là người Ca-na-an và người Phê-rê-sít, oán ghét tao vậy. Tao đây, chỉ có ít người; nếu họ hiệp lại đánh tao, thì chắc tao và nội nhà đều bị tàn hại. [31] Ðáp rằng: Chúng tôi nỡ chịu người ta đãi em gái chúng tôi như con đĩ sao? |
Chapter 35
Chương 35
[1] Then God said to Jacob, "Go up to Bethel and settle there, and build an altar there to God, who appeared to you when you were fleeing from your brother Esau."
[2] So Jacob said to his household and to all who were with him, "Get rid of the foreign gods you have with you, and purify yourselves and change your clothes. [3] Then come, let us go up to Bethel, where I will build an altar to God, who answered me in the day of my distress and who has been with me wherever I have gone." [4] So they gave Jacob all the foreign gods they had and the rings in their ears, and Jacob buried them under the oak at Shechem. [5] Then they set out, and the terror of God fell upon the towns all around them so that no one pursued them. [6] Jacob and all the people with him came to Luz (that is, Bethel) in the land of Canaan. [7] There he built an altar, and he called the place El Bethel, because it was there that God revealed himself to him when he was fleeing from his brother. [8] Now Deborah, Rebekah's nurse, died and was buried under the oak below Bethel. So it was named Allon Bacuth. [9] After Jacob returned from Paddan Aram, God appeared to him again and blessed him. [10] God said to him, "Your name is Jacob, but you will no longer be called Jacob; your name will be Israel." So he named him Israel. [11] And God said to him, "I am God Almighty; be fruitful and increase in number. A nation and a community of nations will come from you, and kings will come from your body. [12] The land I gave to Abraham and Isaac I also give to you, and I will give this land to your descendants after you." [13] Then God went up from him at the place where he had talked with him. [14] Jacob set up a stone pillar at the place where God had talked with him, and he poured out a drink offering on it; he also poured oil on it. [15] Jacob called the place where God had talked with him Bethel. [16] Then they moved on from Bethel. While they were still some distance from Ephrath, Rachel began to give birth and had great difficulty. [17] And as she was having great difficulty in childbirth, the midwife said to her, "Don't be afraid, for you have another son." [18] As she breathed her last-- for she was dying-- she named her son Ben-Oni. But his father named him Benjamin. [19] So Rachel died and was buried on the way to Ephrath (that is, Bethlehem). [20] Over her tomb Jacob set up a pillar, and to this day that pillar marks Rachel's tomb. [21] Israel moved on again and pitched his tent beyond Migdal Eder. [22] While Israel was living in that region, Reuben went in and slept with his father's concubine Bilhah, and Israel heard of it. Jacob had twelve sons: [23] The sons of Leah: Reuben the firstborn of Jacob, Simeon, Levi, Judah, Issachar and Zebulun. [24] The sons of Rachel: Joseph and Benjamin. [25] The sons of Rachel's maidservant Bilhah: Dan and Naphtali. [26] The sons of Leah's maidservant Zilpah: Gad and Asher. These were the sons of Jacob, who were born to him in Paddan Aram. [27] Jacob came home to his father Isaac in Mamre, near Kiriath Arba (that is, Hebron), where Abraham and Isaac had stayed. [28] Isaac lived a hundred and eighty years. [29] Then he breathed his last and died and was gathered to his people, old and full of years. And his sons Esau and Jacob buried him. |
[1] Ðức Chúa Trời phán cùng Gia-cốp rằng: Hãy chổi dậy, đi lên Bê-tên mà ở, và hãy lập nơi đó một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, là Ðấng hiện ra cùng ngươi đương lúc chạy trốn khỏi Ê-sau, anh ngươi.
[2] Gia-cốp bèn nói cùng vợ con và mọi kẻ đi theo mình rằng: Hãy dẹp các tượng thần ngoại bang khỏi giữa các ngươi, làm cho mình được thanh sạch và thay áo xống đi. [3] Ðoạn, chúng ta hãy chổi dậy, đi đến Bê-tên, nơi đó ta sẽ lập một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã trả lời ta trong lúc nguy hiểm, và đã phù hộ ta trong khi đi đường. [4] Họ bèn đưa cho Gia-cốp các tượng thần ngoại bang của mình, và các vòng đeo nơi tai; rồi người chôn mấy vật đó dưới gốc cây dẻ bộp, gần thành Si-chem. [5] Ðoạn, chúng khởi hành. Ðức Chúa Trời bèn giáng sự kinh hãi cho các thành ở chung quanh đó, nên họ chẳng dám đuổi theo các con trai của Gia-cốp. [6] Gia-cốp cùng mọi kẻ đi theo đến tại Lu-xơ (là thành Bê-tên), thuộc về xứ Ca-na-an. [7] Người lập tại đó một bàn thờ, đặt tên chốn nầy Ên-Bê-tên, vì là nơi Ðức Chúa Trời đã hiện ra cùng người trong lúc chạy trốn khỏi anh mình. [8] Khi đó Ðê-bô-ra, mụ vú của Rê-be-ca, qua đời, được chôn thân dưới thành Bê-tên tại gốc dẻ bộp; nhơn đó người ta gọi là cây A-lôn-Ba-cút. [9] Khi ở xứ Pha-đan-a-ram đến, Ðức Chúa Trời lại hiện ra cùng Gia-cốp nữa, ban phước cho người, [10] và phán rằng: Tên ngươi là Gia-cốp, sau nầy sẽ chẳng gọi Gia-cốp nữa, nhưng sẽ đặt là Y-sơ-ra-ên. Rồi Ngài đặt tên người là Y-sơ-ra-ên. [11] Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy sanh sản và thêm nhiều; một dân cho đến nhiều dân đều sẽ do nơi ngươi mà sanh, cùng các vua sẽ do nơi mình ngươi mà ra. [12] Xứ ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác thì ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi. [13] Ðức Chúa Trời bèn ngự lên khỏi nơi Ngài đã phải cùng Gia-cốp. [14] Người dựng một cây trụ đó tại nơi Ðức Chúa Trời đã phán cùng mình, dâng lễ quán và tưới dầu vào. [15] Ðoạn, Gia-cốp đặt tên nơi Ðức Chúa Trời đã phán cùng mình là Bê-tên. [16] Ở từ Bê-tên đi, họ còn cách Ên-phù-hộ-rát chừng vào thôi đường, thì Ra-chên sanh nở. Việc sanh nở của người thật đau đớn. [17] Trong khi khó sanh, bà mụ nói rằng: Ðừng sợ chi, vì nàng còn một con trai nữa. [18] Vả, bởi Ra-chên gần trút linh hồn, vì đương cơn hấp hối, nên người đặt đứa con trai đó tên là Bê-nô-ni; còn cha nó lại đặt tên là Bên-gia-min. [19] Vậy, Ra-chên qua đời, được chôn bên con đường đi về Ê-phơ-rát, tức là Bết-lê-hem. [20] Gia-cốp dựng một mộ-bia; ấy là mộ-bia của Ra-chên đến ngày nay hãy còn di tích. [21] Kế đó, Y-sơ-ra-ên đi, đóng trại ở ngoài nơi tháp Ê-để. [22] Vả, nhầm khi Y-sơ-ra-ên ngụ tại xứ nầy, thì Ru-bên có đến nằm cùng Bi-la, vợ lẽ của cha mình; Y-sơ-ra-ên hay được việc đó. [23] Vả, Gia-cốp có được mười hai con trai. Con của Lê-a là Ru-bên, trưởng nam của Gia-cốp; kế nữa là Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn. [24] Con của Ra-chên và Giô-sép và Bên-gia-min. [25] Con của Bi-la, đòi của Ra-chên là Ðan và Nép-ta-li; [26] và con của Xinh-ba, đòi của Lê-a, là Gát và A-se. Ấy đó là các con trai của Gia-cốp sanh tại xứ Pha-đan-a-ram. [27] Gia-cốp đến cùng Y-sác, cha mình, ở Mam-rê, tại thành Ki-ri-át-a-ra-ba, tức là Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và Y-sác đã kiều ngụ. [28] Y-sác hưởng thọ được một trăm tám mươi tuổi. [29] Người tuổi cao tác lớn, thỏa mãn về đời mình, tắt hơi, được về cùng tổ phụ. Ê-sau và Gia-cốp, hai con trai, chôn người. |
Chapter 36
Chương 36
[1] This is the account of Esau (that is, Edom).
[2] Esau took his wives from the women of Canaan: Adah daughter of Elon the Hittite, and Oholibamah daughter of Anah and granddaughter of Zibeon the Hivite-- [3] also Basemath daughter of Ishmael and sister of Nebaioth. [4] Adah bore Eliphaz to Esau, Basemath bore Reuel, [5] and Oholibamah bore Jeush, Jalam and Korah. These were the sons of Esau, who were born to him in Canaan. [6] Esau took his wives and sons and daughters and all the members of his household, as well as his livestock and all his other animals and all the goods he had acquired in Canaan, and moved to a land some distance from his brother Jacob. [7] Their possessions were too great for them to remain together; the land where they were staying could not support them both because of their livestock. [8] So Esau (that is, Edom) settled in the hill country of Seir. [9] This is the account of Esau the father of the Edomites in the hill country of Seir. [10] These are the names of Esau's sons: Eliphaz, the son of Esau's wife Adah, and Reuel, the son of Esau's wife Basemath. [11] The sons of Eliphaz: Teman, Omar, Zepho, Gatam and Kenaz. [12] Esau's son Eliphaz also had a concubine named Timna, who bore him Amalek. These were grandsons of Esau's wife Adah. [13] The sons of Reuel: Nahath, Zerah, Shammah and Mizzah. These were grandsons of Esau's wife Basemath. [14] The sons of Esau's wife Oholibamah daughter of Anah and granddaughter of Zibeon, whom she bore to Esau: Jeush, Jalam and Korah. [15] These were the chiefs among Esau's descendants: The sons of Eliphaz the firstborn of Esau: Chiefs Teman, Omar, Zepho, Kenaz, [16] Korah, Gatam and Amalek. These were the chiefs descended from Eliphaz in Edom; they were grandsons of Adah. [17] The sons of Esau's son Reuel: Chiefs Nahath, Zerah, Shammah and Mizzah. These were the chiefs descended from Reuel in Edom; they were grandsons of Esau's wife Basemath. [18] The sons of Esau's wife Oholibamah: Chiefs Jeush, Jalam and Korah. These were the chiefs descended from Esau's wife Oholibamah daughter of Anah. [19] These were the sons of Esau (that is, Edom), and these were their chiefs. [20] These were the sons of Seir the Horite, who were living in the region: Lotan, Shobal, Zibeon, Anah, [21] Dishon, Ezer and Dishan. These sons of Seir in Edom were Horite chiefs. [22] The sons of Lotan: Hori and Homam. Timna was Lotan's sister. [23] The sons of Shobal: Alvan, Manahath, Ebal, Shepho and Onam. [24] The sons of Zibeon: Aiah and Anah. This is the Anah who discovered the hot springs in the desert while he was grazing the donkeys of his father Zibeon. [25] The children of Anah: Dishon and Oholibamah daughter of Anah. [26] The sons of Dishon: Hemdan, Eshban, Ithran and Keran. [27] The sons of Ezer: Bilhan, Zaavan and Akan. [28] The sons of Dishan: Uz and Aran. [29] These were the Horite chiefs: Lotan, Shobal, Zibeon, Anah, [30] Dishon, Ezer and Dishan. These were the Horite chiefs, according to their divisions, in the land of Seir. [31] These were the kings who reigned in Edom before any Israelite king reigned: [32] Bela son of Beor became king of Edom. His city was named Dinhabah. [33] When Bela died, Jobab son of Zerah from Bozrah succeeded him as king. [34] When Jobab died, Husham from the land of the Temanites succeeded him as king. [35] When Husham died, Hadad son of Bedad, who defeated Midian in the country of Moab, succeeded him as king. His city was named Avith. [36] When Hadad died, Samlah from Masrekah succeeded him as king. [37] When Samlah died, Shaul from Rehoboth on the river succeeded him as king. [38] When Shaul died, Baal-Hanan son of Acbor succeeded him as king. [39] When Baal-Hanan son of Acbor died, Hadad succeeded him as king. His city was named Pau, and his wife's name was Mehetabel daughter of Matred, the daughter of Me-Zahab. [40] These were the chiefs descended from Esau, by name, according to their clans and regions: Timna, Alvah, Jetheth, [41] Oholibamah, Elah, Pinon, [42] Kenaz, Teman, Mibzar, [43] Magdiel and Iram. These were the chiefs of Edom, according to their settlements in the land they occupied. This was Esau the father of the Edomites. |
[1] Ðây là dòng dõi của Ê-sau, tức là Ê-đôm vậy.
[2] Ê-sau cưới các vợ trong bọn con gái xứ Ca-na-an, là A-đa, con gái Ê-lôn, người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na, cháu ngoại của Xi-bê-ôn, người Hê-vít, [3] cùng Bách-mát, con gái Ích-ma-ên, và là em gái của Nê-ba-giốt. [4] A-đa sanh Ê-li-pha cho Ê-sau; Bách-mát sanh Rê-u-ên; [5] còn Ô-hô-li-ba-ma sanh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Ấy đó là các con trai của Ê-sau sanh tại xứ Ca-na-an. [6] Ê-sau dẫn các vợ, con trai, con gái mình, mọi người nhà, các bầy chiên, lục-súc, và tài vật mình đã gây dựng tại xứ Ca-na-an, dời qua xứ khác, cách xa Gia-cốp, em mình. [7] Vả, vì cớ hai anh em của cải nhiều, bầy súc vật đông, xứ đương kiều ngụ không đủ đất dùng nữa, nên ở chung nhau chẳng được. [8] Vậy, Ê-sau, tức là Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ. [9] Ðây là dòng dõi Ê-sau, tổ phụ dân Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ. [10] Ðây là tên các con trai Ê-sau: A-đa-vợ người, sanh Ê-li-pha; Bách-mát, cũng vợ người, sanh Rê-u-ên. [11] Con trai của Ê-li-pha là Thê-ma, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham và Kê-na. [12] Thim-na, vợ lẽ Ê-li-pha, con trai của Ê-sau, sanh A-ma-léc cho người. Ðó là cháu của A-đa, vợ Ê-sau. [13] Còn đây là con trai của Rê-u-ên: Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa. Ấy là các cháu của Bách-mát, cùng vợ Ê-sau. [14] Và mấy người nầy là con trai của Ô-lô-li-ba-ma, vợ của Ê-sau, con gái A-na, cháu ngoại Xi-bê-ôn. Nàng sanh cho Ê-sau Giê-úc, Gai-lam, và Cô-ra. [15] Ðây là các trưởng tộc trong vòng con cháu Ê-sau: Các con trai Ê-li-pha con trưởng nam của Ê-sau, là trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Ô-ma, trưởng tộc Xê-phô, trưởng tộc Kê-na, [16] trưởng tộc A-ma-léc. Ðó là các trưởng tộc do nơi Ê-li-pha sanh tại xứ Ê-đôm, và là các cháu của A-đa. [17] Ðây là các con trai của Rê-u-ên, con Ê-sau: trưởng tộc Na-hát, trưởng tộc Xê-rách, trưởng tộc Sam-ma, và trưởng tộc Mích-xa. Ðó là các trưởng tộc do nơi Rê-u-ên sanh ra tại xứ Ê-đôm, và là các cháu của Bách-mát. [18] Ðây là các con trai của Ô-lo-li-ba-ma, vợ Ê-sau: trưởng tộc Giê-úc, trưởng tộc Gia-lam, và trưởng tộc Cô-ra. Ðó là mấy trưởng tộc do Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau, con gái của A-na, sanh ra. [19] Ấy là các con trai của Ê-sau, tức là Ê-đôm, và đó là mấy trưởng tộc của họ. [20] Ðây là các con trai của Sê-i-rơ, người Hô-rít, thuở xưa ở tại xứ đó: Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, [21] Ði-sôn, Ét-xe, và Ði-san. Ðó là mấy con trai của Sê-i-rơ, trưởng tộc dân Hô-rít, ở tại xứ Ê-đôm. [22] Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hê-man; còn Thim-na là em của gái Lô-than. [23] Ðây là các con trai của Sô-banh: Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và Ô-nam. [24] Ðây là các con trai của Xi-bê-ôn: Ai-gia và A-na. Ấy là A-na có tìm đặng suối nước sôi nơi đồng vắng, trong khi chăn lừa cho Xi-bê-ôn, cha nàng. [25] Ðây là con cái của A-na: Ði-sôn và Ô-hô-li-ba-ma, con gái người. [26] Ðây là con trai của Ði-sôn: Hem-đan, Ếch-ban, Dít-ran và Kê-ran. [27] Ðây là con trai của Ét-xe: Binh-han, Xa-van và A-can. [28] Ðây là con trai của Ði-san: Uùt-sơ và A-ran. [29] Còn đây là các trưởng tộc dân Hô-rít: trưởng tộc Lô-than, trưởng tộc Sô-banh, trưởng tộc Xi-bê-ôn, trưởng tộc A-na, [30] trưởng tộc Ði-sôn, trưởng tộc Ét-xe, và trưởng tộc Ði-san. Ðó là các trưởng tộc của dân Hô-rít, ở tại xứ Sê-i-rơ. [31] Trước khi dân Y-sơ-ra-ên chưa có một vua nào cai trị, thì đây là các vua trị vì xứ Ê-đôm; [32] Bê-la, con trai Bê-ô, trì vì xứ Ê-đôm; tên thành người là Ðin-ha-ba. [33] Vua Bê-la băng, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, lên kế vị. [34] Vua Giô-báp băng, Hu-sam, người xứ Thê-man, lên kế vị. [35] Vua Hu-sam băng, Ha-đát, con trai Bê-đát, lên kế vị. Ấy là vua nầy đánh thắng dân Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; và tên thành người là A-vít. [36] Vua Ha-đát băng, Sam-la, người Ma-rê-ca lên kế vị. [37] Vua Sam-la băng, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên mé sông, lên kế vị. [38] Vua Sau-lơ băng, Ba-anh-Ha-man, con trai Aïc-bồ, lên kế vị. [39] vua Ba-anh-Ha-nan băng, Ha-đa lên kế vị. Tên thành người là Ba-u; vợ người là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-xa-háp. [40] Ðây là trưởng tộc do nơi Ê-sau sanh ra, kể theo chi tộc, địa hạt và tên mình: trưởng tộc Thim-na, trưởng tộc Anh-va, trưởng tộc Giê-hết, [41] trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn, [42] trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa, [43] trưởng tộc Mác-đi-ên à trưởng tộc Y-ram. Ðó là các trưởng tộc của Ê-đôm, tùy theo nhà ở trong xứ của họ. Tổ phụ của dân Ê-đôm là Ê-sau. |
Chapter 37
Chương 37
[1] Jacob lived in the land where his father had stayed, the land of Canaan.
[2] This is the account of Jacob. Joseph, a young man of seventeen, was tending the flocks with his brothers, the sons of Bilhah and the sons of Zilpah, his father's wives, and he brought their father a bad report about them. [3] Now Israel loved Joseph more than any of his other sons, because he had been born to him in his old age; and he made a richly ornamented robe for him. [4] When his brothers saw that their father loved him more than any of them, they hated him and could not speak a kind word to him. [5] Joseph had a dream, and when he told it to his brothers, they hated him all the more. [6] He said to them, "Listen to this dream I had: [7] We were binding sheaves of grain out in the field when suddenly my sheaf rose and stood upright, while your sheaves gathered around mine and bowed down to it." [8] His brothers said to him, "Do you intend to reign over us? Will you actually rule us?" And they hated him all the more because of his dream and what he had said. [9] Then he had another dream, and he told it to his brothers. "Listen," he said, "I had another dream, and this time the sun and moon and eleven stars were bowing down to me." [10] When he told his father as well as his brothers, his father rebuked him and said, "What is this dream you had? Will your mother and I and your brothers actually come and bow down to the ground before you?" [11] His brothers were jealous of him, but his father kept the matter in mind. [12] Now his brothers had gone to graze their father's flocks near Shechem, [13] and Israel said to Joseph, "As you know, your brothers are grazing the flocks near Shechem. Come, I am going to send you to them." "Very well," he replied. [14] So he said to him, "Go and see if all is well with your brothers and with the flocks, and bring word back to me." Then he sent him off from the Valley of Hebron. When Joseph arrived at Shechem, [15] a man found him wandering around in the fields and asked him, "What are you looking for?" [16] He replied, "I'm looking for my brothers. Can you tell me where they are grazing their flocks?" [17] "They have moved on from here," the man answered. "I heard them say, 'Let's go to Dothan.'" So Joseph went after his brothers and found them near Dothan. [18] But they saw him in the distance, and before he reached them, they plotted to kill him. [19] "Here comes that dreamer!" they said to each other. [20] "Come now, let's kill him and throw him into one of these cisterns and say that a ferocious animal devoured him. Then we'll see what comes of his dreams." [21] When Reuben heard this, he tried to rescue him from their hands. "Let's not take his life," he said. [22] "Don't shed any blood. Throw him into this cistern here in the desert, but don't lay a hand on him." Reuben said this to rescue him from them and take him back to his father. [23] So when Joseph came to his brothers, they stripped him of his robe-- the richly ornamented robe he was wearing-- [24] and they took him and threw him into the cistern. Now the cistern was empty; there was no water in it. [25] As they sat down to eat their meal, they looked up and saw a caravan of Ishmaelites coming from Gilead. Their camels were loaded with spices, balm and myrrh, and they were on their way to take them down to Egypt. [26] Judah said to his brothers, "What will we gain if we kill our brother and cover up his blood? [27] Come, let's sell him to the Ishmaelites and not lay our hands on him; after all, he is our brother, our own flesh and blood." His brothers agreed. [28] So when the Midianite merchants came by, his brothers pulled Joseph up out of the cistern and sold him for twenty shekels of silver to the Ishmaelites, who took him to Egypt. [29] When Reuben returned to the cistern and saw that Joseph was not there, he tore his clothes. [30] He went back to his brothers and said, "The boy isn't there! Where can I turn now?" [31] Then they got Joseph's robe, slaughtered a goat and dipped the robe in the blood. [32] They took the ornamented robe back to their father and said, "We found this. Examine it to see whether it is your son's robe." [33] He recognized it and said, "It is my son's robe! Some ferocious animal has devoured him. Joseph has surely been torn to pieces." [34] Then Jacob tore his clothes, put on sackcloth and mourned for his son many days. [35] All his sons and daughters came to comfort him, but he refused to be comforted. "No," he said, "in mourning will I go down to the grave to my son." So his father wept for him. [36] Meanwhile, the Midianites sold Joseph in Egypt to Potiphar, one of Pharaoh's officials, the captain of the guard. |
[1] Gia-cốp, tại xứ của cha mình đã kiều ngụ, là xứ Ca-na-an.
[2] Ðây là chuyện dòng dõi của Gia-cốp. Giô-sép, tuổi mười bảy, chăn chiên với các anh mình; người đi kết bạn cùng con trai Bi-la và con Xinh-ba, hai vợ cha mình. Giô-sép thuật lại với cha các chuyện xấu của họ nói. [3] Vả, Y-sơ-ra-ên thương yêu Giô-sép hơn những con trai khác, vì là con muộn mình, nên may cho chàng một cái áo dài có nhiều sắc. [4] Các anh thấy cha thương Giô-sép hơn bọn mình, bèn sanh lòng ganh ghét, chẳng có thế lấy lời tử tế nói cùng chàng được. [5] Giô-sép có nằm chiêm bao, thuật lại cho các anh mình nghe; họ càng thêm ganh ghét nữa. [6] Người nói rằng: Tôi có điềm chiêm bao, xin các anh hãy nghe tôi thuật: [7] Chúng ta đương ở ngoài đồng bó lúa, nầy bó lúa tôi đứng dựng lên, còn bó lúa của các anh đều đến ở chung quanh, sấp mình xuống trước bó lúa tôi. [8] Các anh người bèn đáp rằng: Vậy, mầy sẽ cai trị chúng ta sao? mầy sẽ hành-quyền trên chúng ta sao? Họ càng ganh ghét hơn nữa, vì điềm chiêm bao và lời nói của chàng. [9] Giô-sép lại nằm chiêm bao nữa, thuật cùng các anh mình rằng: Tôi còn một điềm chiêm bao nữa: Nầy mặt trời, mặt trăng, và mười một ngôi sao đều sấp mình xuống trước mặt tôi! [10] Chàng thuật chiêm bao đó lại cho cha và các anh mình nghe; nhưng cha chàng quở mà hỏi rằng: Ðiềm chiêm bao của mầy đó có nghĩa chi? Có phải tao, mẹ, và các anh mầy đều phải đến sấp mình xuống đất trước mặt mầy chăng? [11] Các anh lấy làm ganh ghét chàng; còn cha lại ghi nhớ lấy điều đó. [12] Các anh chàng đi chăn chiên của cha tại Si-chem. [13] Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Các anh con có chăn bầy chiên tại Si-chem chăng? Lại đây, đặng cha sai con đi đến chúng nó. Giô-sép đáp rằng: Có con đây. [14] Y-sơ-ra-ên biểu rằng: Con hãy đi, xem thử các anh con ra sao, và các bầy chiên thể nào; rồi đem tin về cho cha hay. Vậy, từ trũng Hếp-rôn, người sai Giô-sép đi đến Si-chem. [15] Có một người gặp chàng đi lạc trong đồng ruộng, liền hỏi và nói cùng chàng rằng: Ngươi tìm chi? [16] Ðáp rằng: Tôi tìm các anh tôi. Xin hãy chỉ giùm tôi họ chăn bầy chiên nơi nào. [17] Người nói: Các anh ngươi ở đây đi rồi, vì tôi có nghe họ nói rằng: Ta hãy đi đến Ðô-ta-in. Vậy, Giô-sép, đi tìm các anh mình, gặp được tại Ðô-ta-in. [18] Các anh thấy chàng đi ở đàng xa, chưa đến gần, thì đã lập mưu để giết chàng. [19] Chúng bèn nói nhau rằng: Kìa, thằng nằm mộng đến kia! [20] Bây giờ, nào! chúng ta hãy giết nó đi, quăng xuống một cái hố nước nào đó; đoạn ta sẽ nói rằng nó đã bị thú rừng xé ăn, rồi sẽ xem các điềm chiêm bao của nó ra sao. [21] Ru-bên nghe qua lời đó, liền giải cứu chàng ra khỏi ra các anh mà rằng: Chúng ta đừng giết chết nó; [22] lại tiếp: Chúng ta chớ nên làm đổ máu ra; hãy liệng nó trong cái hố nước nơi đồng vắng kia, và đừng tra tay vào mình nó. Người nói vậy, có ý muốn giải cứu chàng khỏi tay họ, để trả chàng về cùng cha mình. [23] Vừa khi Giô-sép đến gần các anh, họ bèn lột áo chàng, là áo có nhiều sắc đương mặc trong mình; [24] rồi, bắt chàng đem quăng trong hố nước. Vả, hố khô cạn, chẳng có nước. [25] Ðoạn, họ ngồi lại ăn. Nhướng mắt lên chợt thấy một đoàn dân Ích-ma-ên ở phía Ga-la-át đi đến, trên lưng lạc đà họ chở đầy thuốc thơm, nhũ hương và một dược đương đem đi đến xứ Ê-díp-tô. [26] Giu-đa bèn nói cùng các anh em rằng: Giết em ta mà giấu máu nó, có dùng cho ta được việc chi? [27] Hè! hãy đem bán nó cho dân Ích-ma-ên và đừng tra tay vào mình nó; vì nó là em, là cốt nhục của chúng ta. Các anh em đều nghe theo lời người nói. [28] Vả, khi những lái-buôn Ma-đi-an đi ngang qua, các anh kéo Giô-sép lên khỏi hố nước, rồi bán chàng giá hai mươi miếng bạc cho dân Ích-ma-ên đem qua xứ Ê-díp-tô. [29] Ru-bên trở lại hố; nầy Giô-sép đâu mất rồi; bèn xé áo mình, [30] trở lại nơi các em mình mà rằng: Ôi! đứa trẻ đâu mất rồi! còn tôi, sẽ đi đâu. [31] Các anh giết một con dê đực, rồi lấy áo Giô-sép nhúng vào trong máu; [32] đoạn, gởi cái áo nhiều sắc đó đem về cho cha mình và dặn nói rằng: Ðây là vật chúng tôi đã kiếm được. Vậy, xin hãy nhìn coi, có phải áo của con trai cha chăng. [33] Gia-cốp nhìn và nói rằng: Ấy là áo của con trai ta đó; một thú dữ đã xé cấu nó! Quả thật Giô-sép đã bị phân thây rồi! [34] Người xé quần áo mình ra, lấy bao quấn ngang hông, và để tang lâu ngày cho con trai mình. [35] Hết thảy con trai, con gái hiệp lại an ủy người, nhưng không chịu; bèn nói rằng: Ta để tang luôn xuống chốn âm phủ cùng con ta! Ấy đó, cha Giô-sép khóc than chàng như vậy. [36] Các lái buôn Ma-đi-an đem Giô-sép đến xứ Ê-díp-tô, bán cho Phô-ti-pha, quan thị vệ của Pha-ra-ôn. |
Chapter 38
Chương 38
[1] At that time, Judah left his brothers and went down to stay with a man of Adullam named Hirah.
[2] There Judah met the daughter of a Canaanite man named Shua. He married her and lay with her; [3] she became pregnant and gave birth to a son, who was named Er. [4] She conceived again and gave birth to a son and named him Onan. [5] She gave birth to still another son and named him Shelah. It was at Kezib that she gave birth to him. [6] Judah got a wife for Er, his firstborn, and her name was Tamar. [7] But Er, Judah's firstborn, was wicked in the LORD's sight; so the LORD put him to death. [8] Then Judah said to Onan, "Lie with your brother's wife and fulfill your duty to her as a brother-in-law to produce offspring for your brother." [9] But Onan knew that the offspring would not be his; so whenever he lay with his brother's wife, he spilled his semen on the ground to keep from producing offspring for his brother. [10] What he did was wicked in the LORD's sight; so he put him to death also. [11] Judah then said to his daughter-in-law Tamar, "Live as a widow in your father's house until my son Shelah grows up." For he thought, "He may die too, just like his brothers." So Tamar went to live in her father's house. [12] After a long time Judah's wife, the daughter of Shua, died. When Judah had recovered from his grief, he went up to Timnah, to the men who were shearing his sheep, and his friend Hirah the Adullamite went with him. [13] When Tamar was told, "Your father-in-law is on his way to Timnah to shear his sheep," [14] she took off her widow's clothes, covered herself with a veil to disguise herself, and then sat down at the entrance to Enaim, which is on the road to Timnah. For she saw that, though Shelah had now grown up, she had not been given to him as his wife. [15] When Judah saw her, he thought she was a prostitute, for she had covered her face. [16] Not realizing that she was his daughter-in-law, he went over to her by the roadside and said, "Come now, let me sleep with you." "And what will you give me to sleep with you?" she asked. [17] "I'll send you a young goat from my flock," he said. "Will you give me something as a pledge until you send it?" she asked. [18] He said, "What pledge should I give you?" "Your seal and its cord, and the staff in your hand," she answered. So he gave them to her and slept with her, and she became pregnant by him. [19] After she left, she took off her veil and put on her widow's clothes again. [20] Meanwhile Judah sent the young goat by his friend the Adullamite in order to get his pledge back from the woman, but he did not find her. [21] He asked the men who lived there, "Where is the shrine prostitute who was beside the road at Enaim?" "There hasn't been any shrine prostitute here," they said. [22] So he went back to Judah and said, "I didn't find her. Besides, the men who lived there said, 'There hasn't been any shrine prostitute here.'" [23] Then Judah said, "Let her keep what she has, or we will become a laughingstock. After all, I did send her this young goat, but you didn't find her." [24] About three months later Judah was told, "Your daughter-in-law Tamar is guilty of prostitution, and as a result she is now pregnant." Judah said, "Bring her out and have her burned to death!" [25] As she was being brought out, she sent a message to her father-in-law. "I am pregnant by the man who owns these," she said. And she added, "See if you recognize whose seal and cord and staff these are." [26] Judah recognized them and said, "She is more righteous than I, since I wouldn't give her to my son Shelah." And he did not sleep with her again. [27] When the time came for her to give birth, there were twin boys in her womb. [28] As she was giving birth, one of them put out his hand; so the midwife took a scarlet thread and tied it on his wrist and said, "This one came out first." [29] But when he drew back his hand, his brother came out, and she said, "So this is how you have broken out!" And he was named Perez. [30] Then his brother, who had the scarlet thread on his wrist, came out and he was given the name Zerah. |
[1] Trong lúc đó, Giu-đa, lìa xa các anh em mình, đến ở cùng một người A-đu-lam, tên là Hi-ra.
[2] Tại đó, Giu-đa thấy con gái của một người Ca-na-an, tên là Su-a, bèn cưới làm vợ, và ăn ở cùng nàng. [3] Nàng thọ thai, sanh được một con trai, đặt tên là Ê-rơ. [4] Nàng thọ thai nữa, sanh được một con trai đặt tên là Ô-nan; [5] lại sanh thêm một con trai, đặt tên là Sê-la. Vả, lúc vợ sanh sản, thì Giu-đa ngụ tại Kê-xíp. [6] Giu-đa cưới cho Ê-rơ, con trưởng nam, một người vợ tên là Ta-ma. [7] Nhưng Ê-rơ độc ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, nên Ngài giết người đi. [8] Giu-đa bèn biểu Ô-nan rằng: Con hãy lại gần vợ anh con, kết bạn cùng nàng như em chồng, đặng nối dòng dõi cho anh. [9] Ô-nan biết rằng dòng dõi nầy sẽ chẳng thuộc về mình, nên đương khi đến cùng nàng, thì làm rơi rớt xuống đất, để đừng sanh dòng dõi cho anh. [10] Nhưng điều người làm vậy không đẹp lòng Ðức Giê-hô-va, nên Ngài cũng giết người luôn đi. [11] Ðoạn, Giu-đa biểu Ta-ma, dâu mình, rằng: Hãy về ở góa bên nhà cha con, cho đến chừng nào Sê-la, con trai cha, sẽ trở nên khôn lớn. Vì người nói rằng: Chúng ta hãy coi chừng, e khi nó cũng chết như hai anh nó chăng. Ta-ma bèn đi về ở nhà cha mình. [12] Ngày qua tháng lại, con gái của Su-a, vợ Giu-đa, qua đời. Khi đã nguôi lòng, thì Giu-đa đi cùng bạn là Hi-ra, người A-đu-lam, lên đến nơi mấy thợ hớt lông chiên mình, tại Thim-na. [13] Người ta cho nàng Ta-ma hay điều đó mà rằng: Nầy, ông gia ngươi đi khiến Thim-na đặng hớt lông chiên. [14] Nàng bèn cổi áo góa bụa mình lại, rồi ngồi trước cửa thành Ê-na-im, bên con đường đi về Thim-na; làm vậy là vì nàng đã thấy Sê-la khôn lớn rồi, nhưng họ không gả mình cho chàng làm vợ. [15] Giu-đa thấy nàng, cho là một kỵ nữ, vì nàng che mặt, [16] bèn lại gần mà nói rằng: Hãy cho ta đến cùng nàng; vì cớ ngươi không biết nàng là dâu mình. Nàng đáp rằng: Ngươi sẽ cho tôi món chi đặng đi đến cùng tôi? [17] Ðáp rằng: Ta sẽ gởi cho nàng một con dê con của bầy ta. Nàng hỏi: Người sẽ cho tôi một của chi làm tin, cho đến chừng nào sẽ gởi con dê? [18] Ðáp rằng: Ta sẽ cho nàng của chi làm tin bây giờ? Nàng đáp: Con dầu, dây và cây gậy của người đương cầm nơi tay. Người liền cho, đi lại cùng nàng; nàng thọ thai vì người vậy. Ðoạn, nàng đứng dậy mà đi, [19] cổi lúp ra và mặc quần áo góa bụa lại. [20] Giu-đa cậy bạn A-đu-lam mình đem cho con dê con đặng chuộc mấy vật tin nơi tay người đờn bà nầy; nhưng tìm nàng chẳng thấy. [21] Bạn bèn hỏi dân tại nơi nàng ở rằng: Người kỵ nữ khi trước ở ngoài đường nơi cửa thành Ê-na-im đâu rồi? Họ đáp rằng: Ở đây chẳng có một kỵ nữ nào hết. [22] Bạn bèn trở về Giu-đa mà rằng: Tôi kiếm nàng không đặng; và dân nơi đó có nói: ở đây chẳng có một kỵ nữ nào. [23] Giu-đa rằng: Nầy, tôi đã gởi dê con đến, mà bạn chẳng thấy nàng; vậy, để cho nàng giữ lấy của tin đó, chẳng nên gây điều nhơ nhuốc cho chúng ta. [24] Cách chừng ba tháng sau, người ta có học lại cùng Giu-đa rằng: Ta-ma, dâu ngươi, đã làm kỵ nữ, và vì nông nổi đó, nàng đã hoang-thai. Giu-đa đáp: Hãy đem nó ra thiêu đi. [25] Ðương khi người ta đem nàng ra, thì nàng sai đến nói cùng ông gia rằng: Xin cha hãy nhìn lại con dấu, dây và gậy nầy là của ai. Tôi thọ thai do nơi người mà có các vật nầy. [26] Giu-đa nhìn biết mấy món đó, bèn nói rằng: Nàng phải hơn ta, vì ta không đưa Sê-la, con trai ta, cho nàng. Ðoạn, người không ăn ở cùng nàng nữa. [27] Ðến kỳ sanh nở, nầy trong bụng nàng có thai đôi. [28] Ðương lúc sanh nở, một trong hai đứa đưa tay ra trước; bà mụ bắt lấy tay buộc một sợi chỉ điều, và nói rằng: Ðứa nầy ra trước. [29] Nhưng nó rút tay vào, thì đây, anh nó lại ra. Bà mụ nói rằng: Mầy, tông rách dường nầy! Họ đặt tên là Phê-rết. [30] Kế em nó ra sau, là đứa nơi tay có sợi chỉ điều, và họ đặt tên là Sê-rách. |
Chapter 39
Chương 39
[1] Now Joseph had been taken down to Egypt. Potiphar, an Egyptian who was one of Pharaoh's officials, the captain of the guard, bought him from the Ishmaelites who had taken him there.
[2] The LORD was with Joseph and he prospered, and he lived in the house of his Egyptian master. [3] When his master saw that the LORD was with him and that the LORD gave him success in everything he did, [4] Joseph found favor in his eyes and became his attendant. Potiphar put him in charge of his household, and he entrusted to his care everything he owned. [5] From the time he put him in charge of his household and of all that he owned, the LORD blessed the household of the Egyptian because of Joseph. The blessing of the LORD was on everything Potiphar had, both in the house and in the field. [6] So he left in Joseph's care everything he had; with Joseph in charge, he did not concern himself with anything except the food he ate. Now Joseph was well-built and handsome, [7] and after a while his master's wife took notice of Joseph and said, "Come to bed with me!" [8] But he refused. "With me in charge," he told her, "my master does not concern himself with anything in the house; everything he owns he has entrusted to my care. [9] No one is greater in this house than I am. My master has withheld nothing from me except you, because you are his wife. How then could I do such a wicked thing and sin against God?" [10] And though she spoke to Joseph day after day, he refused to go to bed with her or even be with her. [11] One day he went into the house to attend to his duties, and none of the household servants was inside. [12] She caught him by his cloak and said, "Come to bed with me!" But he left his cloak in her hand and ran out of the house. [13] When she saw that he had left his cloak in her hand and had run out of the house, [14] she called her household servants. "Look," she said to them, "this Hebrew has been brought to us to make sport of us! He came in here to sleep with me, but I screamed. [15] When he heard me scream for help, he left his cloak beside me and ran out of the house." [16] She kept his cloak beside her until his master came home. [17] Then she told him this story: "That Hebrew slave you brought us came to me to make sport of me. [18] But as soon as I screamed for help, he left his cloak beside me and ran out of the house." [19] When his master heard the story his wife told him, saying, "This is how your slave treated me," he burned with anger. [20] Joseph's master took him and put him in prison, the place where the king's prisoners were confined. But while Joseph was there in the prison, [21] the LORD was with him; he showed him kindness and granted him favor in the eyes of the prison warden. [22] So the warden put Joseph in charge of all those held in the prison, and he was made responsible for all that was done there. [23] The warden paid no attention to anything under Joseph's care, because the LORD was with Joseph and gave him success in whatever he did. |
[1] Vả, Giô-sép bị đem qua xứ Ê-díp-tô, thì Phô-ti-pha, người bổn xứ, làm quan thị vệ của Pha-ra-ôn, mua chàng nơi thay dân Ích-ma-ên đã dẫn đến.
[2] Giô-sép ở trong nhà chủ mình, là người Ê-díp-tô, được Ðức Giê-hô-va phù hộ, nên thạnh lợi luôn. [3] Chủ thấy Ðức Giê-hô-va phù hộ chàng và xui cho mọi việc chi chàng lãnh làm nơi tay đều được thạnh vượng. [4] Vậy, Giô-sép được ơn trước mặt chủ mình; chủ cắt chàng hầu việc, đặt cai quản cửa nhà, và phó của cải mình cho chàng hết. [5] Từ khi người đặt Giô-sép cai quản cửa nhà cùng hết thảy của cải mình rồi, thì Ðức Giê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Ðức Giê-hô-va bủa khắp mọi vật của người làm chủ, hoặc trong nhà, hoặc ngoài đồng. [6] Người giao hết của cải mình cho Giô-sép coi sóc, chẳng lo đến việc nào nữa, trừ ra các phần vật thực của mình ăn mà thôi. Vả, Giô-sép hình dung đẹp đẽ, mặt mày tốt tươi. [7] Sau các việc nầy, vợ chủ đưa mắt cùng Giô-sép, mà nói rằng: Hãy lại nằm cùng ta. [8] Chàng từ chối và đáp rằng: Chủ đã giao nơi tay tôi mọi vật của người, và nầy, chủ chẳng lo biết đến việc chi trong nhà nữa; [9] trong nhà nầy chẳng ai lớn hơn tôi, và chủ cùng không cấm chi tôi, trừ ra một mình ngươi, vì là vợ của chủ tôi. Thế nào tôi dám làm điều đại ác dường ấy, mà phạm tội cùng Ðức Chúa Trời sao? [10] Thường ngày người dỗ dành mặc dầu, thì Giô-sép chẳng khấng nghe lời dụ dỗ nằm cùng hay là ở cùng người chút nào. [11] Một ngày kia, Giô-sép vào nhà đặng làm công việc; vả, chẳng có người nhà nào ở đó, [12] thì người bèn nắm áo chàng mà rằng: Hãy nằm cùng ta! Nhưng chàng liền tuột áo để lại trong tay người mà chạy trốn ra ngoài. [13] Khi người thấy áo còn lại nơi tay mình, và chàng đã chạy trốn ra ngoài như vậy, [14] bèn gọi người nhà mà nói rằng: Bay coi! Họ khéo đem vào nhà một thằng Hê-bơ-rơ để chọc ghẹo ta. Nó lại gần toan nằm cùng ta, nhưng ta la lớn lên. [15] Vừa khi nó nghe ta cất tiếng la, thì tuột áo lại bên ta, chạy trốn ra ngoài. [16] Người bèn để áo của Giô-sép bên mình đợi khi chủ về nhà, [17] học lại cùng chủ y như lời trước, rằng: Thằng nô lệ Hê-bơ-rơ mà ông khéo đem về nhà đã đến gần đặng chọc ghẹo tôi; [18] nhưng khi tôi cất tiếng la lên, nó tuột áo lại bên tôi, rồi chạy trốn ra ngoài. [19] Vừa khi chủ của Giô-sép nghe lời vợ nói rằng: Ðó, kẻ nô lệ ông làm điều như vậy, thì nổi giận phừng phừng, [20] bèn bắt chàng đem bỏ vào tù, là nơi cầm các kẻ phạm tội của vua. Vậy, chàng ở tù tại đó. [21] Ðức Giê-hô-va phù hộ Giô-sép và tỏ lòng nhân từ cùng chàng, làm cho được ơn trước mặt chủ ngục. [22] Chủ ngục giao hết các kẻ tù trong tay Giô-sép, chẳng việc chi làm qua khỏi được chàng. [23] Chủ ngục chẳng soát lại những việc đã ở nơi tay Giô-sép, vì có Ðức Giê-hô-va phù hộ chàng, xui cho việc chi chàng làm cũng được thạnh vượng |
Chapter 40
Chương 40
[1] Some time later, the cupbearer and the baker of the king of Egypt offended their master, the king of Egypt.
[2] Pharaoh was angry with his two officials, the chief cupbearer and the chief baker, [3] and put them in custody in the house of the captain of the guard, in the same prison where Joseph was confined. [4] The captain of the guard assigned them to Joseph, and he attended them. After they had been in custody for some time, [5] each of the two men-- the cupbearer and the baker of the king of Egypt, who were being held in prison-- had a dream the same night, and each dream had a meaning of its own. [6] When Joseph came to them the next morning, he saw that they were dejected. [7] So he asked Pharaoh's officials who were in custody with him in his master's house, "Why are your faces so sad today?" [8] "We both had dreams," they answered, "but there is no one to interpret them." Then Joseph said to them, "Do not interpretations belong to God? Tell me your dreams." [9] So the chief cupbearer told Joseph his dream. He said to him, "In my dream I saw a vine in front of me, [10] and on the vine were three branches. As soon as it budded, it blossomed, and its clusters ripened into grapes. [11] Pharaoh's cup was in my hand, and I took the grapes, squeezed them into Pharaoh's cup and put the cup in his hand." [12] "This is what it means," Joseph said to him. "The three branches are three days. [13] Within three days Pharaoh will lift up your head and restore you to your position, and you will put Pharaoh's cup in his hand, just as you used to do when you were his cupbearer. [14] But when all goes well with you, remember me and show me kindness; mention me to Pharaoh and get me out of this prison. [15] For I was forcibly carried off from the land of the Hebrews, and even here I have done nothing to deserve being put in a dungeon." [16] When the chief baker saw that Joseph had given a favorable interpretation, he said to Joseph, "I too had a dream: On my head were three baskets of bread. [17] In the top basket were all kinds of baked goods for Pharaoh, but the birds were eating them out of the basket on my head." [18] "This is what it means," Joseph said. "The three baskets are three days. [19] Within three days Pharaoh will lift off your head and hang you on a tree. And the birds will eat away your flesh." [20] Now the third day was Pharaoh's birthday, and he gave a feast for all his officials. He lifted up the heads of the chief cupbearer and the chief baker in the presence of his officials: [21] He restored the chief cupbearer to his position, so that he once again put the cup into Pharaoh's hand, [22] but he hanged the chief baker, just as Joseph had said to them in his interpretation. [23] The chief cupbearer, however, did not remember Joseph; he forgot him. |
[1] Mấy việc nầy qua rồi, xảy có quan tửu chánh và quan thượng thiện của vua Ê-díp-tô phạm đến chúa mình.
[2] Pha-ra-ôn nổi giận cùng hai quan mình, là tửu chánh và thượng thiện, [3] bèn đem họ cần ngục tại dinh quan thị vệ, là nơi đương cầm Giô-sép. [4] Quan thị vệ cắt phần Giô-sép hầu việc hai quan đó; họ bị ngồi ngục một ít lâu. [5] Cùng trong một đêm, quan tửu chánh và quan thượng thiện của vua Ê-díp-tô đương bị cầm ngục, thấy một điềm chiêm bao, mỗi người một chiêm bao, và mỗi chiêm bao có ý nghĩa rõ ràng. [6] Sáng mai, Giô-sép đến cùng họ, nhìn thấy sắc buồn bực, [7] bèn hỏi rằng: Ngày nay sao hai quan có sắc mặt âu sầu vậy? [8] Ðáp rằng: Chúng tôi có thấy một điềm chiêm bao mà không ai bàn giùm. Giô-sép rằng: Sự bàn chiêm bao há chẳng do nơi Ðức Chúa Trời ư? Xin hãy thuật lại điềm chiêm bao của hai quan cho tôi nghe đi. [9] Quan tửu chánh thuật điềm chiêm bao mình lại cho Giô-sép mà rằng: Trong chiêm bao, tôi thấy một gốc nho ở trước mặt tôi; [10] gốc nho đó lại có ba nhành. Dường như thấy nhành nảy chồi, trổ bông, chùm có trái chín thì phải. [11] Tay tôi đương cầm cái chén của Pha-ra-ôn; tôi hái nho đó, ép nước nho vào, rồi dâng tửu bôi vào tay Pha-ra-ôn. [12] Giô-sép nói: Ý-nghĩa chiêm bao đó là thể nầy: Ba nhành nho tức là ba ngày. [13] Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ tha quan ra khỏi ngục, phục chức lại, quan sẽ dâng cái chén của Pha-ra-ôn vào tay người như cũ, như khi còn làm chức tửu chánh. [14] Song khi quan được hưởng lạc lại rồi, xin nhớ đến tôi, làm ơn tâu cùng Pha-ra-ôn về nổi tôi, và đem tôi ra khỏi chốn nầy. [15] Vì tôi bị người ta bắt đem ra khỏi xứ của người Hê-bơ-rơ, và tại đây tôi cũng chẳng có làm gì mà bị cầm nơi lao-lung nầy. [16] Quan thượng thiện thấy Giô-sép bàn mộng được tốt, bèn nói: Còn trong điềm chiêm bao của tôi đây, tôi đội ba giỏ bánh trắng trên đầu; [17] trong giỏ cao hơn hết, có đủ món thực vật của thợ làm bánh hấp cho Pha-ra-ôn; chim đáp vào giỏ trên đầu tôi ăn các món đó. [18] Giô-sép đáp rằng: Ý-nghĩa chiêm bao nầy là, ba giỏ, tức là ba ngày. [19] Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ xử trảm quan, sai đem treo lên cây cho chim chóc ăn thịt quan vậy. [20] Ðến ngày thứ ba, là ngày sanh-nhựt của Pha-ra-ôn, người bèn bày tiệc đãi cả quần thần, và tha quan tửu chánh cùng quan thượng thiện ra khỏi ngục. [21] Pha-ra-ôn phục chức quan tửu chánh lại như xưa, đặng quan nầy dân tửu bôi vào tay mình; [22] nhưng lại hạ lịnh đem treo quan thượng thiện, y như lời Giô-sép đã bàn ra. [23] Ðoạn, quan tửu chánh chẳng còn nhớ đến Giô-sép nữa; quên người đi. |
Chapter 41
Chương 41
[1] When two full years had passed, Pharaoh had a dream: He was standing by the Nile,
[2] when out of the river there came up seven cows, sleek and fat, and they grazed among the reeds. [3] After them, seven other cows, ugly and gaunt, came up out of the Nile and stood beside those on the riverbank. [4] And the cows that were ugly and gaunt ate up the seven sleek, fat cows. Then Pharaoh woke up. [5] He fell asleep again and had a second dream: Seven heads of grain, healthy and good, were growing on a single stalk. [6] After them, seven other heads of grain sprouted-- thin and scorched by the east wind. [7] The thin heads of grain swallowed up the seven healthy, full heads. Then Pharaoh woke up; it had been a dream. [8] In the morning his mind was troubled, so he sent for all the magicians and wise men of Egypt. Pharaoh told them his dreams, but no one could interpret them for him. [9] Then the chief cupbearer said to Pharaoh, "Today I am reminded of my shortcomings. [10] Pharaoh was once angry with his servants, and he imprisoned me and the chief baker in the house of the captain of the guard. [11] Each of us had a dream the same night, and each dream had a meaning of its own. [12] Now a young Hebrew was there with us, a servant of the captain of the guard. We told him our dreams, and he interpreted them for us, giving each man the interpretation of his dream. [13] And things turned out exactly as he interpreted them to us: I was restored to my position, and the other man was hanged." [14] So Pharaoh sent for Joseph, and he was quickly brought from the dungeon. When he had shaved and changed his clothes, he came before Pharaoh. [15] Pharaoh said to Joseph, "I had a dream, and no one can interpret it. But I have heard it said of you that when you hear a dream you can interpret it." [16] "I cannot do it," Joseph replied to Pharaoh, "but God will give Pharaoh the answer he desires." [17] Then Pharaoh said to Joseph, "In my dream I was standing on the bank of the Nile, [18] when out of the river there came up seven cows, fat and sleek, and they grazed among the reeds. [19] After them, seven other cows came up-- scrawny and very ugly and lean. I had never seen such ugly cows in all the land of Egypt. [20] The lean, ugly cows ate up the seven fat cows that came up first. [21] But even after they ate them, no one could tell that they had done so; they looked just as ugly as before. Then I woke up. [22] "In my dreams I also saw seven heads of grain, full and good, growing on a single stalk. [23] After them, seven other heads sprouted-- withered and thin and scorched by the east wind. [24] The thin heads of grain swallowed up the seven good heads. I told this to the magicians, but none could explain it to me." [25] Then Joseph said to Pharaoh, "The dreams of Pharaoh are one and the same. God has revealed to Pharaoh what he is about to do. [26] The seven good cows are seven years, and the seven good heads of grain are seven years; it is one and the same dream. [27] The seven lean, ugly cows that came up afterward are seven years, and so are the seven worthless heads of grain scorched by the east wind: They are seven years of famine. [28] "It is just as I said to Pharaoh: God has shown Pharaoh what he is about to do. [29] Seven years of great abundance are coming throughout the land of Egypt, [30] but seven years of famine will follow them. Then all the abundance in Egypt will be forgotten, and the famine will ravage the land. [31] The abundance in the land will not be remembered, because the famine that follows it will be so severe. [32] The reason the dream was given to Pharaoh in two forms is that the matter has been firmly decided by God, and God will do it soon. [33] "And now let Pharaoh look for a discerning and wise man and put him in charge of the land of Egypt. [34] Let Pharaoh appoint commissioners over the land to take a fifth of the harvest of Egypt during the seven years of abundance. [35] They should collect all the food of these good years that are coming and store up the grain under the authority of Pharaoh, to be kept in the cities for food. [36] This food should be held in reserve for the country, to be used during the seven years of famine that will come upon Egypt, so that the country may not be ruined by the famine." [37] The plan seemed good to Pharaoh and to all his officials. [38] So Pharaoh asked them, "Can we find anyone like this man, one in whom is the spirit of God?" [39] Then Pharaoh said to Joseph, "Since God has made all this known to you, there is no one so discerning and wise as you. [40] You shall be in charge of my palace, and all my people are to submit to your orders. Only with respect to the throne will I be greater than you." [41] So Pharaoh said to Joseph, "I hereby put you in charge of the whole land of Egypt." [42] Then Pharaoh took his signet ring from his finger and put it on Joseph's finger. He dressed him in robes of fine linen and put a gold chain around his neck. [43] He had him ride in a chariot as his second-in-command, and men shouted before him, "Make way!" Thus he put him in charge of the whole land of Egypt. [44] Then Pharaoh said to Joseph, "I am Pharaoh, but without your word no one will lift hand or foot in all Egypt." [45] Pharaoh gave Joseph the name Zaphenath-Paneah and gave him Asenath daughter of Potiphera, priest of On, to be his wife. And Joseph went throughout the land of Egypt. [46] Joseph was thirty years old when he entered the service of Pharaoh king of Egypt. And Joseph went out from Pharaoh's presence and traveled throughout Egypt. [47] During the seven years of abundance the land produced plentifully. [48] Joseph collected all the food produced in those seven years of abundance in Egypt and stored it in the cities. In each city he put the food grown in the fields surrounding it. [49] Joseph stored up huge quantities of grain, like the sand of the sea; it was so much that he stopped keeping records because it was beyond measure. [50] Before the years of famine came, two sons were born to Joseph by Asenath daughter of Potiphera, priest of On. [51] Joseph named his firstborn Manasseh and said, "It is because God has made me forget all my trouble and all my father's household." [52] The second son he named Ephraim and said, "It is because God has made me fruitful in the land of my suffering." [53] The seven years of abundance in Egypt came to an end, [54] and the seven years of famine began, just as Joseph had said. There was famine in all the other lands, but in the whole land of Egypt there was food. [55] When all Egypt began to feel the famine, the people cried to Pharaoh for food. Then Pharaoh told all the Egyptians, "Go to Joseph and do what he tells you." [56] When the famine had spread over the whole country, Joseph opened the storehouses and sold grain to the Egyptians, for the famine was severe throughout Egypt. [57] And all the countries came to Egypt to buy grain from Joseph, because the famine was severe in all the world. |
[1] Cách hai năm sau, Pha-ra-ôn nằm chiêm bao thấy mình đứng bên bờ sông.
[2] Nầy đâu dưới sông đi lên bảy con bò mập và tốt, ăn cỏ trong bung. [3] Rồi nầy, bảy con bò khác, xấu dạng, gầy guộc, ở dưới sông đi theo lên sau, đến đứng gần các con bò trước trên bờ sông. [4] Bảy con bò xấu dạng, gầy guộc nuốt bảy con bò mập tốt. Pha-ra-ôn bèn thức giấc. [5] Vua nằm ngủ lại, chiêm bao lần thứ nhì, thấy bảy gié lúa chắc, tốt tươi, mọc chung trên một cộng rạ. [6] Kế đó, bảy gié lúa khác lép và bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa kia. [7] Bảy gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc. Pha-ra-ôn bèn thức giấc; và nầy, thành ra một điềm chiêm bao. [8] Sáng mai, tâm thần người bất định, truyền đòi các pháp-sư và các tay bác sĩ xứ Ê-díp-tô đến, thuật lại điềm chiêm bao mình cho họ nghe; nhưng chẳng có ai bàn được điềm chiêm bao đó cho vua hết. [9] Quan tửu chánh bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Bây giờ, tôi nhớ đến lỗi của tôi. [10] Ngày trước, bệ hạ nổi giận cùng quần thần, có cầm ngục quan thượng thiện và tôi nơi dinh quan thị vệ. [11] Trong lúc đó, cùng một đêm kia, chúng tôi có thấy điềm chiêm bao, chiêm bao mỗi người đều có ý nghĩa riêng rõ ràng. [12] Tại đó, cùng chung ngục, có một người Hê-bơ-rơ, còn trẻ, kẻ gia-đinh của quan thị vệ; chúng tôi thuật lại cho chàng nghe điềm chiêm bao của mình; chàng bàn rõ ra cho ai mỗi chiêm bao nấy. [13] Rồi ra, công việc xảy đến y như lời chàng bàn: bệ hạ phục chức tôi lại, và xử treo quan kia. [14] Pha-ra-ôn bèn sai đi đòi Giô-sép; họ lập tức tha người ra khỏi ngục, cạo mặt mày cho, biểu thay đổi áo xống, rồi vào chầu Pha-ra-ôn. [15] Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Trẫm có thấy một điềm chiêm bao mà chẳng ai bàn ra. Vậy, trẫm nghe rằng khi người ta thuật điềm chiêm bao lại cho, thì ngươi bàn được. [16] Giô-sép tâu rằng: Ðó chẳng phải tôi, nhưng ấy là Ðức Chúa Trời đem sự bình an đáp cho bệ hạ vậy. [17] Pha-ra-ôn phán rằng: Nầy, trong điềm chiêm bao trẫm đương đứng bên bờ sông. [18] Nầy đâu bảy con bò mập và tốt dưới sông đi lên, đến ăn cỏ trong bưng. [19] Rồi bảy con bò khác xấu dạng gầy guộc đi theo lên sau; thật trẫm chẳng thấy trong xứ Ê-díp-tô nầy có bò xấu dạng như vậy bao giờ. [20] Bảy con bò xấu dạng gầy guộc đó nuốt bảy con bò mập tốt trước kia, [21] nuốt vào bụng, mà dường như không có nuốt, vì các con bò đó vẫn xấu dạng như xưa. [22] Trẫm bèn thức giấc; rồi lại thấy điềm chiêm bao khác, là bảy gié lúa chắc tốt tươi mọc chung trên một cộng rạ. [23] Kế đó, bảy gié lúa khác, khô, lép, bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa kia; [24] và bảy gié lúa lép đó lại nuốt bảy gié lúa chắc. Trẫm đã thuật điềm chiêm bao nầy cho các pháp-sư, nhưng không ai giải nghĩa ra được. [25] Giô-sép tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Hai điềm chiêm bao của bệ hạ thấy đó đồng một nghĩa mà thôi; Ðức Chúa Trời mách cho bệ hạ biết trước những việc Ngài sẽ làm. [26] Bảy con bò mập tốt đó, tức là bảy năm; bảy gié lúa chắc đó cũng là bảy năm. Ấy chỉ đồng một điềm chiêm bao vậy. [27] Bảy con bò xấu dạng gầy guộc lên theo sau bảy con bò kia, tức là bảy năm; và bảy gié lúa lép bị gió đông thổi háp đó, tức là bảy năm đói kém. [28] Ấy là điều tôi đã tâu cùng bệ hạ rồi: Ðức Chúa Trời có cho bệ hạ thấy những việc Ngài sẽ làm. [29] Nầy, trong khắp xứ Ê-díp-tô sẽ có bảy năm được mùa dư dật. [30] Nhưng bảy năm đó lại liền tiếp bảy năm đói kém; dân bổn xứ đều sẽ quên sự dư dật đó, và ách đói kém sẽ làm cho toàn xứ hao mòn. [31] Và vì sự đói kém liên tiếp nầy lớn quá, nên thiên hạ chẳng còn thấy chi về sự dư dật đó nữa. [32] Nếu điềm chiêm bao đến hai lần cho bệ hạ, ấy bởi Ðức Chúa Trời đã quyết định điều đó rồi, và Ngài mau mau lo làm cho thành vậy. [33] Bây giờ bệ hạ khá chọn một người thông minh trí-huệ, lập người lên làm đầu trong xứ Ê-díp-tô, [34] cùng lập các ủy viên trong xứ, để góp một phần năm của số thâu vào trong bảy năm được mùa dư dật đó. [35] Họ hãy thâu góp hết thảy mùa màng trong bảy năm được mùa dư dật sẽ đến sau nầy, cùng thâu thập lúa mì sẵn dành cho Pha-ra-ôn, dùng làm lương để dành trong các thành, và họ hãy giữ gìn lấy. [36] Các lương thực nầy phải để dành cho bảy năm đói kém sẽ đến trong xứ Ê-díp-tô, hầu cho xứ nầy khỏi bị diệt bởi sự đói kém đó. [37] Các lời nầy đẹp ý Pha-ra-ôn và quần thần. [38] Pha-ra-ôn phán cùng quần thần rằng: Chúng ta há dễ tìm một người như người nầy, có thần minh của Ðức Chúa Trời được sao? [39] Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Vì Ðức Chúa Trời xui cho ngươi biết mọi việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh trí-huệ như ngươi nữa. [40] Vậy, ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng lời ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi. [41] Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép rằng: Hãy xem! trẫm lập ngươi cầm quyền trên cả xứ Ê-díp-tô. [42] Vua liền cổi chiếc nhẫn trong tay mình, đeo vào tay Giô-sép, truyền mặc áo vải gai mịn, và đeo vòng vàng vào cổ người; [43] rồi, truyền cho lên ngồi sau xe vua, có người đi trước hô rằng: Hãy quì xuống! Ấy, Giô-sép được lập lên cầm quyền cả xứ Ê-díp-tô là vậy. [44] Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép: Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu chẳng có ngươi, thì trong cả xứ Ê-díp-tô không có ai giơ tay đưa chơn lên được. [45] Pha-ra-ôn đặt tên Giô-sép là Xa-phơ-nát-Pha-nê-ách, đưa nàng Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, cho người làm vợ. Người thường tuần hành trong xứ Ê-díp-tô. [46] Vả, khi Giô-sép ra mắt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, thì người đã ba mươi tuổi. Vậy, người từ tạ Pha-ra-ôn mà đi tuần khắp xứ Ê-díp-tô. [47] Trong bảy năm được mùa dư dật, đất sanh sản ra đầy dẫy. [48] Giô-sép bèn thâu góp hết thảy lương thực của bảy năm đó trong xứ Ê-díp-tô, và chứa lương thực nầy khắp các thành; trong mỗi thành, đều dành chứa hoa lợi của các ruộng ở chung quanh thành đó. [49] Vậy, Giô-sép thâu góp lúa mì rất nhiều, như cát nơi bờ biển, cho đến đỗi người ta đếm không được, vì đầy dẫy vô số. [50] Trước khi đến năm đói kém, thì Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, sanh cho Giô-sép hai con trai. [51] Giô-sép đặt tên đứa đầu lòng là Ma-na-se, vì nói rằng: Ðức Chúa Trời đã làm cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta. [52] Người đặt tên đứa thứ nhì là Ép-ra-im, vì nói rằng: Ðức Chúa Trời làm cho ta được hưng vượng trong xứ mà ta bị khốn khổ. [53] Bảy năm được mùa dư dật trong xứ Ê-díp-tô bèn qua, [54] thì bảy năm đói kém khởi đến, y như lời Giô-sép đã bàn trước. Khắp các xứ khác cũng đều bị đói, nhưng trong cả xứ Ê-díp-tô lại có bánh. [55] Ðoạn, cả xứ Ê-díp-tô đều bị đói, dân chúng đến kêu cầu Pha-ra-ôn xin lương. Pha-ra-ôn phán cùng bổn dân rằng: Hãy đi đến Giô-sép, rồi làm theo lời người sẽ chỉ bảo cho. [56] Khi khắp xứ bị đói kém, thì Giô-sép mở mọi kho lúa mà bán cho dân Ê-díp-tô. [57] Xứ càng đói nhiều nữa; vả, vì khắp thế gian đều bị đói quá, nên đâu đâu cũng đổ đến Ê-díp-tô mùa lúa nơi Giô-sép bán. |
Chapter 42
Chương 42
[1] When Jacob learned that there was grain in Egypt, he said to his sons, "Why do you just keep looking at each other?"
[2] He continued, "I have heard that there is grain in Egypt. Go down there and buy some for us, so that we may live and not die." [3] Then ten of Joseph's brothers went down to buy grain from Egypt. [4] But Jacob did not send Benjamin, Joseph's brother, with the others, because he was afraid that harm might come to him. [5] So Israel's sons were among those who went to buy grain, for the famine was in the land of Canaan also. [6] Now Joseph was the governor of the land, the one who sold grain to all its people. So when Joseph's brothers arrived, they bowed down to him with their faces to the ground. [7] As soon as Joseph saw his brothers, he recognized them, but he pretended to be a stranger and spoke harshly to them. "Where do you come from?" he asked. "From the land of Canaan," they replied, "to buy food." [8] Although Joseph recognized his brothers, they did not recognize him. [9] Then he remembered his dreams about them and said to them, "You are spies! You have come to see where our land is unprotected." [10] "No, my lord," they answered. "Your servants have come to buy food. [11] We are all the sons of one man. Your servants are honest men, not spies." [12] "No!" he said to them. "You have come to see where our land is unprotected." [13] But they replied, "Your servants were twelve brothers, the sons of one man, who lives in the land of Canaan. The youngest is now with our father, and one is no more." [14] Joseph said to them, "It is just as I told you: You are spies! [15] And this is how you will be tested: As surely as Pharaoh lives, you will not leave this place unless your youngest brother comes here. [16] Send one of your number to get your brother; the rest of you will be kept in prison, so that your words may be tested to see if you are telling the truth. If you are not, then as surely as Pharaoh lives, you are spies!" [17] And he put them all in custody for three days. [18] On the third day, Joseph said to them, "Do this and you will live, for I fear God: [19] If you are honest men, let one of your brothers stay here in prison, while the rest of you go and take grain back for your starving households. [20] But you must bring your youngest brother to me, so that your words may be verified and that you may not die." This they proceeded to do. [21] They said to one another, "Surely we are being punished because of our brother. We saw how distressed he was when he pleaded with us for his life, but we would not listen; that's why this distress has come upon us." [22] Reuben replied, "Didn't I tell you not to sin against the boy? But you wouldn't listen! Now we must give an accounting for his blood." [23] They did not realize that Joseph could understand them, since he was using an interpreter. [24] He turned away from them and began to weep, but then turned back and spoke to them again. He had Simeon taken from them and bound before their eyes. [25] Joseph gave orders to fill their bags with grain, to put each man's silver back in his sack, and to give them provisions for their journey. After this was done for them, [26] they loaded their grain on their donkeys and left. [27] At the place where they stopped for the night one of them opened his sack to get feed for his donkey, and he saw his silver in the mouth of his sack. [28] "My silver has been returned," he said to his brothers. "Here it is in my sack." Their hearts sank and they turned to each other trembling and said, "What is this that God has done to us?" [29] When they came to their father Jacob in the land of Canaan, they told him all that had happened to them. They said, [30] "The man who is lord over the land spoke harshly to us and treated us as though we were spying on the land. [31] But we said to him, 'We are honest men; we are not spies. [32] We were twelve brothers, sons of one father. One is no more, and the youngest is now with our father in Canaan.' [33] "Then the man who is lord over the land said to us, 'This is how I will know whether you are honest men: Leave one of your brothers here with me, and take food for your starving households and go. [34] But bring your youngest brother to me so I will know that you are not spies but honest men. Then I will give your brother back to you, and you can trade in the land.'" [35] As they were emptying their sacks, there in each man's sack was his pouch of silver! When they and their father saw the money pouches, they were frightened. [36] Their father Jacob said to them, "You have deprived me of my children. Joseph is no more and Simeon is no more, and now you want to take Benjamin. Everything is against me!" [37] Then Reuben said to his father, "You may put both of my sons to death if I do not bring him back to you. Entrust him to my care, and I will bring him back." [38] But Jacob said, "My son will not go down there with you; his brother is dead and he is the only one left. If harm comes to him on the journey you are taking, you will bring my gray head down to the grave in sorrow." |
[1] Gia-cốp thấy xứ Ê-díp-tô có lúa bán ra, bèn nói cùng các con trai mình rằng: Sao bay ngơ ngẩn nhìn nhau vậy?
[2] Lại rằng: Nầy, cha nghe dưới xứ Ê-díp-tô có lúa bán; bay hãy xuống đó mua lúa cho chúng ta, hầu cho chúng ta sống và khỏi chết, chớ! [3] Mười người anh của Giô-sép bèn xuống Ê-díp-tô đặng mua lúa. [4] Nhưng Gia-cốp không cho Bên-gia-min, em Giô-sép, đi cùng các anh; vì nghĩ rằng: Ta nên giữ chừng, kẻo xảy ra điều rủi ro cho nó. [5] Xứ Ca-na-an bấy giờ cũng đói, nên các con trai của Y-sơ-ra-ên cũng đổ xuống Ê-díp-tô mua lúa như các người khác. [6] Vả, lúc nầy, chánh Giô-sép cai trị trong nước, và bán lúa cho cả dân bổn xứ. Các anh Giô-sép bèn đến, sấp mình xuống trước mặt người. [7] Giô-sép thấy, nhìn biết các anh mình; nhưng giả làm mặt lạ cùng họ, nói một cách xẳng rằng: Các ngươi ở đâu đến? Ðáp rằng: Ở xứ Ca-na-an đến đặng mua lúa. [8] Vậy, Giô-sép nhìn biết các anh mình; nhưng họ nhìn lại chẳng ra. [9] Giô-sép nhớ lại điềm chiêm bao mình đã thấy về anh em mình, liền thét rằng: Các ngươi là thám tử, đến đây đặng dòm hành những nơi yếu óp của xứ ta. [10] Ðáp rằng: Thưa chúa, chẳng phải vậy; các tôi tớ chúa đến đặng mua lúa mà thôi. [11] Chúng tôi đây đều là con một cha, vốn nhà lương thiện, chẳng phải là thám tử đâu. [12] Người đáp lại rằng: Chẳng phải; các ngươi đến đặng dòm hành những nơi yếu óp của xứ nầy. [13] Ðáp rằng: Kẻ tôi tớ chúa có mười hai anh em, con của một cha, nguyên xứ Ca-na-an; nầy một người đã đi mất biệt, còn người út hiện bây giờ hãy ở tại nhà cùng cha chúng tôi. [14] Giô-sép nói: Ấy quả thật như ta nói, các ngươi là thám tử. [15] Ðây là điều ta thử các ngươi: Ta chỉ mạng Pha-ra-ôn mà thề rằng, hễ em út các ngươi không đến đây thì chẳng bao giờ các ngươi ra khỏi chốn nầy được. [16] Hãy sai một người nào trong bọn các ngươi về dẫn em út xuống; còn bao nhiêu thì phải ở tù lại đây. Lời các ngươi phải thử đã, rồi ta sẽ biết các ngươi nói đó có quả thật chăng. Nếu chẳng thật, thì ta chỉ mạng Pha-ra-ôn thề rằng, các ngươi là thám tử đó. [17] Ðoạn, Giô-sép truyền đem giam họ chung trong ngục ba ngày. [18] Ngày thứ ba, Giô-sép nói cùng họ rằng: Ta kính sợ Ðức Chúa Trời; hãy làm như điều nầy, thì được sống. [19] Nếu các ngươi vốn nhà lương thiện, thì hãy để một người nào ở tù lại đây, còn bao nhiêu đem lương thực về nuôi đói cho nhà các ngươi. [20] Ðoạn, hãy dẫn em út xuống đây, thì lời các ngươi sẽ cho là thật, và các ngươi chẳng phải chết. Vậy, họ nghe theo. [21] Họ bèn nói với nhau rằng: Quả thật chúng ta cam tội cùng em ta ra; vì lúc trước ta thấy tâm hồn nó buồn thảm khi nó xin nhờ ơn, nhưng ta không khứng cho; vậy nên tai vạ nầy mới xảy đến cho chúng ta. [22] Ru-bên đáp rằng: Anh há không có nói cùng các em rằng: Chớ phạm tội nầy cùng đứa trẻ đó sao? Nhưng các em không nghe; nên bây giờ huyết nó đòi chúng ta thường lại. [23] Vả, Giô-sép vẫn dùng người thông ngôn nói chuyện lại cùng các anh, nên họ tưởng Giô-sép chẳng nghe hiểu. [24] Giô-sép xây mặt qua chỗ khác mà khóc. Ðoạn xây mặt lại nói chuyện cùng họ; bèn bắt Si-mê-ôn trong vòng anh em, truyền trói lại trước mặt họ. [25] Giô-sép truyền đầy tớ xúc lúa đổ đầy bao và để bạc lại trong đó cho mỗi người anh em, cũng để thêm lương thực dùng dọc đường. Ðầy tớ làm y như lời. [26] Ðoạn, anh em chất mấy bao lúa lên lưng lừa, rồi đi. [27] Ðến quán, một người trong bọn mở bao ra cho lừa ăn thóc, thấy bạc mình ở tại miệng bao; [28] bèn nói cùng anh em rằng: Bạc của tôi trả lại, hiện trong bao tôi đây! Các anh em nhát gan, vừa nói với nhau, vừa run, mà rằng: Ðức Chúa Trời đã làm chi cho chúng ta đây? [29] Các anh em trở về cùng Gia-cốp, cha mình, tại xứ Ca-na-an, thuật lại cho người nghe mọi nỗi đã xảy đến, rằng: [30] người đương làm chúa tại xứ Ê-díp-tô nói với chúng tôi cách xẳng xớm, cho chúng tôi là thám tử. [31] Song chúng tôi có thưa cùng người rằng: Chúng tôi vốn nhà lương thiện, nào có phải là thám tử đâu. [32] Chúng tôi được mười hai anh em, con một cha; một người đã đi mất biệt, còn người út hiện bây giờ ở nhà cùng cha, tại xứ Ca-na-an. [33] Người làm chúa xứ đó dạy rằng: Làm như vầy, ta mới cho các ngươi là lương thiện: Hãy để lại cùng ta một người nào trong bọn các ngươi, còn bao nhiêu sẽ đem lương thực về nuôi đói cho nhà các ngươi; [34] đoạn, hãy dẫn em út đến cho ta. Vậy, ta mới biết rằng các ngươi chẳng phải là thám tử, nhưng là người lương thiện; ta sẽ giao em lại cho, và các ngươi sẽ được buôn bán trong xứ nầy. [35] Vả, đương khi các anh em trút lúa mì ra bao, nầy đâu, trong mỗi bao có gói bạc của mỗi người; cha và các anh em thấy những gói bạc mình, đều lấy làm sợ hãi. [36] Gia-cốp, cha họ bèn nói rằng: Bay làm mất các con tao; Giô-sép đã mất biệt, Si-mê-ôn cũng mất biệt; mà bây giờ, lại muốn dẫn Bê-gia-min đi nữa sao! Các nông nỗi nầy đều đổ lại cho tao hết! [37] Ru-bên thưa lại cùng cha rằng: Cha hãy giao em nơi tôi, tôi sẽ dẫn về cho. Ví bằng chẳng dẫn em về, thì cha hãy giết hai đứa con trai tôi đi. [38] Nhưng Gia-cốp đáp rằng: Con út tao sẽ chẳng đi xuống với bay đâu; vì anh nó đã chết rồi, chỉ còn một mình nó mà thôi. Nếu điều rủi ro chi xảy đến cho nó nơi dọc đường bay đi, tức nhiên bay làm cho kẻ tóc bạc nầy đau lòng xót dạ xuống âm phủ. |
Chapter 43
Chương 43
[1] Now the famine was still severe in the land.
[2] So when they had eaten all the grain they had brought from Egypt, their father said to them, "Go back and buy us a little more food." [3] But Judah said to him, "The man warned us solemnly, 'You will not see my face again unless your brother is with you.' [4] If you will send our brother along with us, we will go down and buy food for you. [5] But if you will not send him, we will not go down, because the man said to us, 'You will not see my face again unless your brother is with you.'" [6] Israel asked, "Why did you bring this trouble on me by telling the man you had another brother?" [7] They replied, "The man questioned us closely about ourselves and our family. 'Is your father still living?' he asked us. 'Do you have another brother?' We simply answered his questions. How were we to know he would say, 'Bring your brother down here'?" [8] Then Judah said to Israel his father, "Send the boy along with me and we will go at once, so that we and you and our children may live and not die. [9] I myself will guarantee his safety; you can hold me personally responsible for him. If I do not bring him back to you and set him here before you, I will bear the blame before you all my life. [10] As it is, if we had not delayed, we could have gone and returned twice." [11] Then their father Israel said to them, "If it must be, then do this: Put some of the best products of the land in your bags and take them down to the man as a gift-- a little balm and a little honey, some spices and myrrh, some pistachio nuts and almonds. [12] Take double the amount of silver with you, for you must return the silver that was put back into the mouths of your sacks. Perhaps it was a mistake. [13] Take your brother also and go back to the man at once. [14] And may God Almighty grant you mercy before the man so that he will let your other brother and Benjamin come back with you. As for me, if I am bereaved, I am bereaved." [15] So the men took the gifts and double the amount of silver, and Benjamin also. They hurried down to Egypt and presented themselves to Joseph. [16] When Joseph saw Benjamin with them, he said to the steward of his house, "Take these men to my house, slaughter an animal and prepare dinner; they are to eat with me at noon." [17] The man did as Joseph told him and took the men to Joseph's house. [18] Now the men were frightened when they were taken to his house. They thought, "We were brought here because of the silver that was put back into our sacks the first time. He wants to attack us and overpower us and seize us as slaves and take our donkeys." [19] So they went up to Joseph's steward and spoke to him at the entrance to the house. [20] "Please, sir," they said, "we came down here the first time to buy food. [21] But at the place where we stopped for the night we opened our sacks and each of us found his silver-- the exact weight-- in the mouth of his sack. So we have brought it back with us. [22] We have also brought additional silver with us to buy food. We don't know who put our silver in our sacks." [23] "It's all right," he said. "Don't be afraid. Your God, the God of your father, has given you treasure in your sacks; I received your silver." Then he brought Simeon out to them. [24] The steward took the men into Joseph's house, gave them water to wash their feet and provided fodder for their donkeys. [25] They prepared their gifts for Joseph's arrival at noon, because they had heard that they were to eat there. [26] When Joseph came home, they presented to him the gifts they had brought into the house, and they bowed down before him to the ground. [27] He asked them how they were, and then he said, "How is your aged father you told me about? Is he still living?" [28] They replied, "Your servant our father is still alive and well." And they bowed low to pay him honor. [29] As he looked about and saw his brother Benjamin, his own mother's son, he asked, "Is this your youngest brother, the one you told me about?" And he said, "God be gracious to you, my son." [30] Deeply moved at the sight of his brother, Joseph hurried out and looked for a place to weep. He went into his private room and wept there. [31] After he had washed his face, he came out and, controlling himself, said, "Serve the food." [32] They served him by himself, the brothers by themselves, and the Egyptians who ate with him by themselves, because Egyptians could not eat with Hebrews, for that is detestable to Egyptians. [33] The men had been seated before him in the order of their ages, from the firstborn to the youngest; and they looked at each other in astonishment. [34] When portions were served to them from Joseph's table, Benjamin's portion was five times as much as anyone else's. So they feasted and drank freely with him. |
[1] Vả, sự đói kém trong xứ lớn lắm.
[2] Khi nội nhà đã ăn hết lương thực ở xứ Ê-díp-tô đem về rồi, thì cha các người ấy dạy rằng: Bay hãy trở xuống mua một ít lương thực cho chúng ta. [3] Giu-đa thưa: Người đó có nói quyết cùng các con rằng: Ví em út không theo xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta. [4] Nếu cha cho em đi với, thì chúng tôi mới xuống Ê-díp-tô mua lương thực cho cha được. [5] Bằng không, thì chúng tôi chẳng trở xuống đâu, vì người đó đã nói rằng: Ví em út không theo xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta. [6] Y-sơ-ra-ên quở rằng: Sao bay khéo tệ cùng tao, mà tỏ cho người ấy rằng bay còn một em nữa? [7] Thưa rằng: Người đó hỏi kỹ càng về chúng tôi, và về bà con chúng tôi rằng: Thân-phụ các ngươi còn sống chăn? cò có một người anh em nào nữa chăng? Chúng tôi có đáp các lời hỏi đó. Há dễ biết người đó sẽ dặn chúng tôi rằng: Hãy đem em út xuống đây, sao? [8] Giu-đa lại thưa cùng Y-sơ-ra-ên cha mình, rằng: Hãy cho đứa trẻ theo con, thì chúng tôi sẽ đứng dậy đi, hầu cho chúng ta, nào các con, nào cha, nào các cháu của cha đây đều được sống và khỏi chết. [9] Con sẽ bảo lãnh em cho; cha sẽ cứ nơi con mà đòi em. Nếu không dẫn em về không để em trước mặt cha, thì con đây sẽ cam tội cùng cha mãi mãi. [10] Vả, nếu không có điều dùng dằng, thì chúng tôi đã đi và về được hai lần rồi. [11] Ðoạn, Y-sơ-ra-ên, cha các anh em, nói rằng: Nếu việc đã thể kia, thì bay phải làm thể nầy: Hãy lấy trong đồ hành lý những thổ sản quí nhứt của xứ ta: một ít nhũ hương và mật ong, các hương hoa và một dược, phi tử và hạnh nhân, đem dâng cho người đó làm của lễ. [12] Hãy đem theo một số tiền bằng hai, đặng thối hồi tiền mà họ đã để lại nơi miệng bao của bay: có lẽ là một sự lộn chăng. [13] Bay hãy đứng dậy đi, dẫn em út theo và trở xuống đến người đó. [14] Cầu xin Ðức Chúa Trời toàn năng xui cho bay được ơn trước mặt người, và tha đứa em kia và Bên-gia-min cho bay. Còn phần cha, nếu phải mất con, thì cha chịu phận vậy! [15] Vậy, các anh em đem theo của lễ và một số tiền bằng hai, cùng dẫn Bên-gia-min đồng đứng dậy đi xuống Ê-díp-tô, mà ra mắt Giô-sép. [16] Vừa khi Giô-sép thấy Bên-gia-min đi theo xuống với, bèn truyền cho quản gia rằng: Hãy đua các người nầy vào nhà trong, bắt con gì làm thịt và nấu dọn đi; vì trưa nầy họ sẽ dùng bữa cùng ta. [17] Quản gia làm theo y như lời dặn, đưa họ vào nhà Giô-sép. [18] Anh em thấy mình phải đưa vào nhà Giô-sép, thì sợ hãi, và nói với nhau rằng: Ấy cũng vì số tiền đã để lại vào bao chúng ta lần trước, nên họ mới đem chúng ta vào chốn nầy, đặng tìm cớ xông vào đánh chúng ta, bắt chúng ta làm tôi mọi, và chiếm đoạt mấy con lừa của chúng ta. [19] Mấy anh em bèn đến gần quản gia của Giô-sép, thưa cùng người tại ngoài cửa [20] mà rằng: Xin chúa tha lỗi cho! anh em chúng tôi đã đến đây một lần rồi, đặng mua lương thực; [21] và khi trở về đến nhà quán, mở các bao ra, nầy số bạc của mỗi người đều ở tại miệng bao mình; cân nặng bao nhiêu đều y như bấy nhiêu. Nầy, chúng tôi có đem lại số bạc đó, [22] và cũng có đem thêm số bạc nữa đặng mua lương thực. Chẳng biết ai để bạc lại trong bao chúng tôi. [23] Quản gia đáp rằng: Mọi việc đều bình yên! đừng sợ chi cả! Ấy là Ðức Chúa Trời của các ngươi, tức Ðức Chúa Trời của cha các ngươi, đã ban vật quí vào bao. Còn bạc các ngươi thì đã có giao cho ta. Ðoạn, người dẫn Si-mê-ôn đến cùng anh em; [24] rồi đưa anh em vào nhà Giô-sép, đem nước ra cho rửa chơn, và cũng cho những lừa ăn cỏ nữa. [25] Các anh em bèn sửa soạn của lễ, đợi trưa Giô-sép về; vì có hay rằng mình sẽ ăn bữa tại nhà nầy. [26] Khi Giô-sép trở về, các anh em bèn lấy của lễ đã đem theo, dâng cho Giô-sép tại nhà; rồi cùng sấp mình xuống đất trước mặt người. [27] Người liền hỏi thăm họ mạnh giỏi thể nào, và nói rằng: Người cha già mà các ngươi đã nói cùng ta đó được mạnh khỏe chăng? còn sống chăng? [28] Ðáp rằng: Kẻ tôi tớ cháu, là cha chúng tôi, vẫn mạnh khỏe và còn sống. Ðoạn, họ cùi đầu và lạy. [29] Giô-sép nhướng mắt thấy Bên-gia-min, em ruột, con trai của mẹ mình, thì hỏi rằng: Ðó có phải em út mà các ngươi đã nói cùng ta chăng? Và tiếp rằng: Con út ơi! cầu xin Ðức Chúa Trời làm ơn cho ngươi! [30] Vì thấy em mình, nên Giô-sép tất lòng cảm động, lật đật bước ra ngoài, tìm nơi nào đặng khóc. Người vào phòng nhà trong và khóc. [31] Ðoạn, rửa mặt, bước ra, làm bộ chắc gan mà nói rằng: Hãy dọn bữa ăn đi. [32] Người ta dọn cho Giô-sép ăn riêng, và cho các anh em ăn riêng. Người Ê-díp-tô ăn chung cùng người cũng dọn cho ngồi riêng nữa; vì người Ê-díp-tô có tánh gớm người Hê-bơ-rơ, nên không ăn chung được. [33] Vậy, các anh em bèn ngồi lại trước mặt Giô-sép, lớn nhỏ tùy theo thứ tự mình, ngơ ngẩn mà nhìn nhau. [34] Giô-sép sai đem mấy món đồ ăn trước mặt mình cho các anh em; nhưng phần Bên-gia-min lại nhiều gấp năm của các người khác. Họ uống và ăn ngon vui cùng Giô-sép. |
Chapter 44
Chương 44
[1] Now Joseph gave these instructions to the steward of his house: "Fill the men's sacks with as much food as they can carry, and put each man's silver in the mouth of his sack.
[2] Then put my cup, the silver one, in the mouth of the youngest one's sack, along with the silver for his grain." And he did as Joseph said. [3] As morning dawned, the men were sent on their way with their donkeys. [4] They had not gone far from the city when Joseph said to his steward, "Go after those men at once, and when you catch up with them, say to them, 'Why have you repaid good with evil? [5] Isn't this the cup my master drinks from and also uses for divination? This is a wicked thing you have done.'" [6] When he caught up with them, he repeated these words to them. [7] But they said to him, "Why does my lord say such things? Far be it from your servants to do anything like that! [8] We even brought back to you from the land of Canaan the silver we found inside the mouths of our sacks. So why would we steal silver or gold from your master's house? [9] If any of your servants is found to have it, he will die; and the rest of us will become my lord's slaves." [10] "Very well, then," he said, "let it be as you say. Whoever is found to have it will become my slave; the rest of you will be free from blame." [11] Each of them quickly lowered his sack to the ground and opened it. [12] Then the steward proceeded to search, beginning with the oldest and ending with the youngest. And the cup was found in Benjamin's sack. [13] At this, they tore their clothes. Then they all loaded their donkeys and returned to the city. [14] Joseph was still in the house when Judah and his brothers came in, and they threw themselves to the ground before him. [15] Joseph said to them, "What is this you have done? Don't you know that a man like me can find things out by divination?" [16] "What can we say to my lord?" Judah replied. "What can we say? How can we prove our innocence? God has uncovered your servants' guilt. We are now my lord's slaves-- we ourselves and the one who was found to have the cup." [17] But Joseph said, "Far be it from me to do such a thing! Only the man who was found to have the cup will become my slave. The rest of you, go back to your father in peace." [18] Then Judah went up to him and said: "Please, my lord, let your servant speak a word to my lord. Do not be angry with your servant, though you are equal to Pharaoh himself. [19] My lord asked his servants, 'Do you have a father or a brother?' [20] And we answered, 'We have an aged father, and there is a young son born to him in his old age. His brother is dead, and he is the only one of his mother's sons left, and his father loves him.' [21] "Then you said to your servants, 'Bring him down to me so I can see him for myself.' [22] And we said to my lord, 'The boy cannot leave his father; if he leaves him, his father will die.' [23] But you told your servants, 'Unless your youngest brother comes down with you, you will not see my face again.' [24] When we went back to your servant my father, we told him what my lord had said. [25] "Then our father said, 'Go back and buy a little more food.' [26] But we said, 'We cannot go down. Only if our youngest brother is with us will we go. We cannot see the man's face unless our youngest brother is with us.' [27] "Your servant my father said to us, 'You know that my wife bore me two sons. [28] One of them went away from me, and I said, "He has surely been torn to pieces." And I have not seen him since. [29] If you take this one from me too and harm comes to him, you will bring my gray head down to the grave in misery.' [30] "So now, if the boy is not with us when I go back to your servant my father and if my father, whose life is closely bound up with the boy's life, [31] sees that the boy isn't there, he will die. Your servants will bring the gray head of our father down to the grave in sorrow. [32] Your servant guaranteed the boy's safety to my father. I said, 'If I do not bring him back to you, I will bear the blame before you, my father, all my life!' [33] "Now then, please let your servant remain here as my lord's slave in place of the boy, and let the boy return with his brothers. [34] How can I go back to my father if the boy is not with me? No! Do not let me see the misery that would come upon my father." |
[1] Giô-sép bèn truyền lịnh cho quản gia rằng: Hễ các người đó chở nổi bao nhiêu, thì hãy đổ lương thực cho họ đầy bao bấy nhiêu, rồi để bạc của mỗi người lại nơi miệng bao họ.
[2] Lại hãy để cái chén bằng bạc ta tại miệng bao chung với bạc mua lúa của người út nữa. Quản gia bèn làm y như lời Giô-sép dặn mình. [3] Ngày mai, trời vừa sáng, người ta cho các người đó và lừa về. [4] Khi đi ra khỏi thành chưa xa, Giô-sép nói cùng quản gia rằng: Ngươi hãy đứng dậy, đuổi theo mấy người đó; khi theo kịp rồi, hãy nói rằng: Sao các ngươi lấy oán trả ơn như vậy? [5] Có phải cái chén nầy là của chúa ta thường dùng uống rượu và bói chăng? Các ngươi đã làm một việc chẳng thiện đó. [6] Quản gia theo kịp, lặp lại mấy lời ấy; [7] các anh em bèn đáp rằng: Sao chúa nói như vậy? Chẳng bao giờ kẻ tôi tớ chúa có tưởng làm đến việc thế nầy! [8] Ðây, từ xứ Ca-na-an chúng tôi có đem bạc đã được nơi miệng bao xuống giao lại cho người thay; dễ nào lại có ý mong ăn cắp bạc hay vàng của dinh chủ người sao? [9] Xin cho kẻ tôi tớ nào mà người tìm được cái chén đó phải chết đi, và chính chúng tôi sẽ làm tôi mọi cho chúa. [10] Quản gia đáp: Ừ thôi! hãy làm như lời các ngươi đã nói: ta tìm được chén nơi ai thì người đó sẽ làm tôi mọi cho ta đó; còn các người thì vô tội. [11] Tức thì, mỗi người lật đật hạ bao mình xuống đất và mở ra. [12] Quản gia lục soát, bắt từ bao anh cả lần đến bao em út. Cái chén bèn tìm đặng trong bao Bê-gia-min. [13] Mỗi người xé áo mình ra, chất bao lúa lên lưng lừa, rồi cùng trở lại thành. [14] Giu-đa cùng anh em đồng vào đến nhà Giô-sép, người hãy còn ở nơi đó; họ bèn sấp mình xuống đất trước mặt người. [15] Giô-sép hỏi: Các ngươi gây nên nông nỗi chi vậy? Há chẳng biết một kẻ như ta đây có tài bói sao? [16] Giu-đa đáp: Chúng tôi sẽ nói cùng chúa làm sao? sẽ phân lại làm sao? sẽ chữa mình chúng tôi làm sao? Ðức Chúa Trời đã thấu rõ điều gian ác của tôi tớ chúa rồi. Nầy, chúng tôi cùng kẻ đã bị bắt được chén nơi tay đều làm kẻ tôi tớ cho chúa. [17] Nhưng Giô-sép đáp rằng: Ta chẳng hề có ý làm như vậy đâu! Người mà đã bị bắt được chén nơi tay sẽ làm tôi mọi ta; còn các ngươi hãy trở về nhà cha mình bình yên. [18] Giu-đa bèn lại gần Giô-sép mà thưa rằng: Vì chúa ngang vai Pha-ra-ôn, xin lỗi chúa, chớ nổi giận cùng kẻ tôi tớ, để tôi nói một lời cho chúa nghe. [19] Chúa có hỏi kẻ tôi tớ rằng: Các ngươi còn cha hay là anh em nào chăng? [20] Có thưa lại cùng chúa rằng: Chúng tôi còn một cha già, cùng một con trai đã sanh muộn cho người. Anh ruột đứa nầy đã chết rồi, nên trong vòng các con của mẹ nó, nó còn một mình, và cha thương nó lắm. [21] Vả, chúa có dặn rằng: Hãy dẫn nó xuống đến ta, hầu cho ta thấy nó được tận mắt. [22] Và chúng tôi có thưa lại cùng chúa rằng: Ðứa trẻ chẳng lìa cha được; nếu lìa ra thì cha sẽ chết. [23] Nhưng chúa lại dạy: Nếu em út không theo các ngươi xuống đây, thì các ngươi chẳng còn thấy mặt ta nữa. [24] Nên khi chúng tôi trở về nhà kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, thì chúng tôi có thuật lại cho người nghe những lời của chúa. [25] Kế ấy, cha lại biểu chúng tôi rằng: Hãy trở xuống đặng mua một ít lương thực. [26] Chúng tôi thưa lại rằng: Không được; nhưng nếu em út đi theo cùng, thì mới trở xuống được; bằng không, thì chúng tôi không thế ra mắt người đó. [27] Kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, đáp rằng: Bây biết rằng vợ ta sanh cho ta hai đứa con trai; [28] một đứa đã từ ta đi mất-biệt; ta cũng đã nói: Chắc đã bị thú dữ xé rồi, vì đến bây giờ chưa thấy lại. [29] Nếu bây còn dắt đứa nầy đi khỏi mặt ta nữa, rủi có điều tai hại chi xảy đến cho nó, tức nhiên bây sẽ làm cho kẻ tóc bạc nầy đau lòng xót dạ mà xuống âm phủ. [30] Cha thương em út tôi lắm đến đỗi hai linh hồn khắng khít nhau; nếu bây giờ, khi tôi trở về nơi kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, mà không có em út đó, [31] thì khi vừa thấy con út không còn nữa, chắc người sẽ chết. Nếu vậy, các tôi tớ chúa sẽ làm cha già tóc bạc của chúng tôi, cũng là kẻ tôi tớ chúa, đau lòng xót dạ xuống âm phủ. [32] Vì kẻ tôi tớ nầy có chịu bảo lãnh đứa con út đó mà thưa rằng: Nếu con không đem em về cho cha, thì sẽ cam tội cùng cha mãi mãi. [33] Vậy bây giờ, xin cho kẻ tôi tớ chúa ở tôi mọi thế cho đứa trẻ, đặng nó theo trở lên cùng các anh mình. [34] Vì, nếu đứa trẻ không theo về, làm sao tôi dám về cùng cha tôi? Ôi, tôi nỡ nào thấy điều tai họa của cha tôi ư! |
Chapter 45
Chương 45
[1] Then Joseph could no longer control himself before all his attendants, and he cried out, "Have everyone leave my presence!" So there was no one with Joseph when he made himself known to his brothers.
[2] And he wept so loudly that the Egyptians heard him, and Pharaoh's household heard about it. [3] Joseph said to his brothers, "I am Joseph! Is my father still living?" But his brothers were not able to answer him, because they were terrified at his presence. [4] Then Joseph said to his brothers, "Come close to me." When they had done so, he said, "I am your brother Joseph, the one you sold into Egypt! [5] And now, do not be distressed and do not be angry with yourselves for selling me here, because it was to save lives that God sent me ahead of you. [6] For two years now there has been famine in the land, and for the next five years there will not be plowing and reaping. [7] But God sent me ahead of you to preserve for you a remnant on earth and to save your lives by a great deliverance. [8] "So then, it was not you who sent me here, but God. He made me father to Pharaoh, lord of his entire household and ruler of all Egypt. [9] Now hurry back to my father and say to him, 'This is what your son Joseph says: God has made me lord of all Egypt. Come down to me; don't delay. [10] You shall live in the region of Goshen and be near me-- you, your children and grandchildren, your flocks and herds, and all you have. [11] I will provide for you there, because five years of famine are still to come. Otherwise you and your household and all who belong to you will become destitute.' [12] "You can see for yourselves, and so can my brother Benjamin, that it is really I who am speaking to you. [13] Tell my father about all the honor accorded me in Egypt and about everything you have seen. And bring my father down here quickly." [14] Then he threw his arms around his brother Benjamin and wept, and Benjamin embraced him, weeping. [15] And he kissed all his brothers and wept over them. Afterward his brothers talked with him. [16] When the news reached Pharaoh's palace that Joseph's brothers had come, Pharaoh and all his officials were pleased. [17] Pharaoh said to Joseph, "Tell your brothers, 'Do this: Load your animals and return to the land of Canaan, [18] and bring your father and your families back to me. I will give you the best of the land of Egypt and you can enjoy the fat of the land.' [19] "You are also directed to tell them, 'Do this: Take some carts from Egypt for your children and your wives, and get your father and come. [20] Never mind about your belongings, because the best of all Egypt will be yours.'" [21] So the sons of Israel did this. Joseph gave them carts, as Pharaoh had commanded, and he also gave them provisions for their journey. [22] To each of them he gave new clothing, but to Benjamin he gave three hundred shekels of silver and five sets of clothes. [23] And this is what he sent to his father: ten donkeys loaded with the best things of Egypt, and ten female donkeys loaded with grain and bread and other provisions for his journey. [24] Then he sent his brothers away, and as they were leaving he said to them, "Don't quarrel on the way!" [25] So they went up out of Egypt and came to their father Jacob in the land of Canaan. [26] They told him, "Joseph is still alive! In fact, he is ruler of all Egypt." Jacob was stunned; he did not believe them. [27] But when they told him everything Joseph had said to them, and when he saw the carts Joseph had sent to carry him back, the spirit of their father Jacob revived. [28] And Israel said, "I'm convinced! My son Joseph is still alive. I will go and see him before I die." |
[1] Bây giờ, Giô-sép không còn thể nào cầm lòng cho đậu được trước mặt các người hầu chung quanh, bèn la lên rằng: Hãy đuổi họ ra hết thảy! Khi Giô-sép tỏ thật cùng các anh em mình, thì không có một người nào khác ở tại đó hết.
[2] Người cất tiếng lên khóc; dân Ê-díp-tô nghe và nhà Pha-ra-ôn nghe nữa. [3] Giô-sép nói cùng anh em rằng: Tôi là Giô-sép. Cha tôi còn sống chăng? Nhưng trước mặt người các anh em bối rối, chẳng đáp lời được. [4] Người lại nói rằng: Các anh em hãy lại gần tôi. Họ bèn lại gần. Người nói: Tôi là Giô-sép, em mà các anh đã bán đặng bị dẫn qua xứ Ê-díp-tô. [5] Bây giờ, đừng sầu não, và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị dẫn đến xứ nầy; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Ðức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh. [6] Kìa, hai năm rồi trong xứ đã bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ không còn cày cấy chi, gặt hái chi được hết. [7] Ðức Chúa Trời sai tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em. [8] Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Ðức Chúa Trời; Ngài dường đặt tôi làm cha Pha-ra-ôn, cai quản cả nhà người, vì trị khắp xứ Ê-díp-tô. [9] Các anh hãy mau mau trở về cha tôi đi, và nói với người rằng: Giô-sép, con của cha, có nói như vầy: Ðức Chúa Trời đã đặt tôi làm chúa cả xứ Ê-díp-tô, cha hãy xuống với tôi; xin đừng chậm trễ, [10] cha, các con, các cháu, các chiên, bò cùng tài vật của cha sẽ ở tại xứ Gô-sen gần tôi đây. [11] Ở đó tôi sẽ nuôi cha, (vì còn năm năm đói kém nữa), e khi cha, người nhà cha, và hết thảy loài vật của cha phải bị ách mà hao mòn. [12] Này, các anh và Bên-gia-min, em tôi, đã thấy tận mắt rằng, chánh miệng tôi đã nói chuyện cùng các anh em đó. [13] Vậy, hãy thuật lại các điều vinh hiển của tôi tại xứ Ê-díp-tô, cùng mọi việc mà anh em đã thấy cho cha nghe, và hãy mau mau dời cha xuống đây. [14] Ðoạn, người ôm lấy cổ Bên-gia-min, em mình, mà khóc; Bên-gia-min cũng ôm cổ người mà khóc. [15] Người cũng ôm các anh mình mà khóc. Ðoạn, anh em nói chuyện cùng người. [16] Lập tức, tiếng đồn đến nhà Pha-ra-ôn rằng: Anh em Giô-sép đã đến. Pha-ra-ôn và quần thần nghe lấy làm đẹp dạ. [17] Pha-ra-ôn bèn phán cùng Giô-sép rằng: Hãy dặn các anh em ngươi rằng: Hãy chỡ đồ lên lừa, đi trở về xứ Ca-na-an, [18] rước cha và người nhà của các ngươi xuống ở cùng ta. Ta sẽ nhượng cho vật tốt nhất trong xứ Ê-díp-tô, và các ngươi sẽ hưỡng mầu mỡ của đất. [19] Còn ta dặn ngươi hãy nói lại cùng họ như vậy: Hãy đem xe cộ từ xứ Ê-díp-tô về cho con nhỏ và vợ mình, cùng dời cha các ngươi xuống đây. [20] Ðừng tiếc tài vật mình, vì vật tốt nhất của xứ Ê-díp-tô sẽ về phần các ngươi. [21] Các con trai của Y-sơ-ra-ên làm y như lời; Giô-sép vâng mạng Pha-ra-ôn, đưa những xe cộ cho anh em mình, và luôn vật thực dùng trong lúc đi đường. [22] Người cũng đưa áo xống mặc đổi thay cho mỗi người, còn Bên-gia-min, người cho trăm miếng bạc cùng năm bộ áo xống. [23] Người cũng sai đem về cho cha mình mười con lừa chỡ các vật quí nhất trong xứ Ê-díp-tô, mười con lừa cái chỡ lúa, bánh, và lương thực để dành dùng trong khi cha đi đường. [24] Vậy, Giô-sép đưa anh em mình lên đường. Lại dặn họ rằng: Xin anh em đừng cải lẫy nhau dọc đường. [25] Các anh em ở Ê-díp-tô trở lên và đến xứ Ca-na-an, nơi Gia-cốp, cha mình, [26] thuật lại lời nầy mà rằng: Giô-sép hãy còn sống; lại ấy là người đang cai trị cả xứ Ê-díp-tô. Nhưng lòng Gia-cốp vẫn vô tình vì người không tin lời họ nói. [27] Anh em thuật lại cho người nghe mọi lời Giô-sép đã nói; Gia-cốp vừa thấy các xe cộ của Giô-sép sai đem về đặng rước mình, thì tâm thần người tỉnh lại, [28] bèn nói rằng: Thôi, biết rồi; Giô-sép, con trai ta, hãy còn sống; ta sẽ đi thăm nó trước khi ta qua đời. |
Chapter 46
Chương 46
[1] So Israel set out with all that was his, and when he reached Beersheba, he offered sacrifices to the God of his father Isaac.
[2] And God spoke to Israel in a vision at night and said, "Jacob! Jacob!" "Here I am," he replied. [3] "I am God, the God of your father," he said. "Do not be afraid to go down to Egypt, for I will make you into a great nation there. [4] I will go down to Egypt with you, and I will surely bring you back again. And Joseph's own hand will close your eyes." [5] Then Jacob left Beersheba, and Israel's sons took their father Jacob and their children and their wives in the carts that Pharaoh had sent to transport him. [6] They also took with them their livestock and the possessions they had acquired in Canaan, and Jacob and all his offspring went to Egypt. [7] He took with him to Egypt his sons and grandsons and his daughters and granddaughters-- all his offspring. [8] These are the names of the sons of Israel (Jacob and his descendants) who went to Egypt: Reuben the firstborn of Jacob. [9] The sons of Reuben: Hanoch, Pallu, Hezron and Carmi. [10] The sons of Simeon: Jemuel, Jamin, Ohad, Jakin, Zohar and Shaul the son of a Canaanite woman. [11] The sons of Levi: Gershon, Kohath and Merari. [12] The sons of Judah: Er, Onan, Shelah, Perez and Zerah (but Er and Onan had died in the land of Canaan). The sons of Perez: Hezron and Hamul. [13] The sons of Issachar: Tola, Puah, Jashub and Shimron. [14] The sons of Zebulun: Sered, Elon and Jahleel. [15] These were the sons Leah bore to Jacob in Paddan Aram, besides his daughter Dinah. These sons and daughters of his were thirty-three in all. [16] The sons of Gad: Zephon, Haggi, Shuni, Ezbon, Eri, Arodi and Areli. [17] The sons of Asher: Imnah, Ishvah, Ishvi and Beriah. Their sister was Serah. The sons of Beriah: Heber and Malkiel. [18] These were the children born to Jacob by Zilpah, whom Laban had given to his daughter Leah-- sixteen in all. [19] The sons of Jacob's wife Rachel: Joseph and Benjamin. [20] In Egypt, Manasseh and Ephraim were born to Joseph by Asenath daughter of Potiphera, priest of On. [21] The sons of Benjamin: Bela, Beker, Ashbel, Gera, Naaman, Ehi, Rosh, Muppim, Huppim and Ard. [22] These were the sons of Rachel who were born to Jacob-- fourteen in all. [23] The son of Dan: Hushim. [24] The sons of Naphtali: Jahziel, Guni, Jezer and Shillem. [25] These were the sons born to Jacob by Bilhah, whom Laban had given to his daughter Rachel-- seven in all. [26] All those who went to Egypt with Jacob-- those who were his direct descendants, not counting his sons' wives-- numbered sixty-six persons. [27] With the two sons who had been born to Joseph in Egypt, the members of Jacob's family, which went to Egypt, were seventy in all. [28] Now Jacob sent Judah ahead of him to Joseph to get directions to Goshen. When they arrived in the region of Goshen, [29] Joseph had his chariot made ready and went to Goshen to meet his father Israel. As soon as Joseph appeared before him, he threw his arms around his father and wept for a long time. [30] Israel said to Joseph, "Now I am ready to die, since I have seen for myself that you are still alive." [31] Then Joseph said to his brothers and to his father's household, "I will go up and speak to Pharaoh and will say to him, 'My brothers and my father's household, who were living in the land of Canaan, have come to me. [32] The men are shepherds; they tend livestock, and they have brought along their flocks and herds and everything they own.' [33] When Pharaoh calls you in and asks, 'What is your occupation?' [34] you should answer, 'Your servants have tended livestock from our boyhood on, just as our fathers did.' Then you will be allowed to settle in the region of Goshen, for all shepherds are detestable to the Egyptians." |
[1] Y-sơ-ra-ên ra đi, đem theo các tài vật mình. Ðến Bê-e-Sê-ba, người bày của lễ dâng cho Ðức Chúa Trời của Y-sác, cha mình.
[2] Trong một sự hiện thấy ban đêm kia, Ðức Chúa Trời có phán cùng Y-sơ-ra-ên rằng: Hỡi Gia-cốp, Gia-cốp! Y-sơ-ra-ên đáp rằng: Có tôi đây. [3] Ðức Chúa Trời phán: Ta là Ðức Chúa Trời, Ðức Chúa Trời của cha ngươi. Hãy xuống Ê-díp-tô, đừng sợ chi, vì tại đó ta sẽ làm cho ngươi thành một nước lớn. [4] Chánh ta sẽ xuống đến đó với ngươi, và chánh ta cũng sẽ dẫn ngươi về chẳng sai. Giô-sép sẽ vuốt mắt ngươi nhắm lại. [5] Từ Bê-e-Sê-ba, Gia-cốp khởi đi; các con trai Y-sơ-ra-ên để Gia-cốp, cha mình, cùng các vợ và con mình lên xe cộ của Pha-ra-ôn đã sai đến rước những người đó. [6] Chúng cũng đem theo các súc vật và của cải mình đã gây dựng tại xứ Ca-na-an, mà đi đến cứ Ê-díp-tô. [7] Vậy, Gia-cốp cùng cả nhà người, nào các con trai, nào các cháu trai, nào các con gái, nào các cháu gái, thảy đều xuống xứ Ê-díp-tô. [8] Ðây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên, tức là Gia-cốp, đến xứ Ê-díp-tô: Con trưởng nam của Gia-cốp là Ru-bên. [9] Các con trai của Ru-bên là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi. [10] Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha, và Sau-lơ, tức con của người vợ xứ Ca-na-an. [11] Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. [12] Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, O-nan, Sê-la, Phê-rết và Sê-rách. Nhưng Ê-rơ và O-nan đã thác tại xứ Ca-na-an; con của Phê-rết là Hết-rôn, và Ha-mun. [13] Các con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn. [14] Các con trai của Sa-bu-lôn là Sê-rết, Ê-lôn, và Gia-lê-ên. [15] Vả, các con trai, và một con gái tên là Ði-na, mà Lê-a sanh cho Gia-cốp khi ở tại Pha-đan-a-ram, cùng các cháu đó, hết thảy là ba mươi ba người. [16] Các con trai của Gát là Xi-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi và A-rê-li. [17] Các con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, và Bê-ri-a, cùng Sê-rách, em gái các người đó. Con của Bê-ri-a là Hê-be, và Manh-ki-ên. [18] Vả, các con của nàng Xinh-ba sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là mười sáu người. Nàng là con đòi của của La-ban đã cho theo hầu Lê-a, con gái mình. [19] Các con trai của Ra-chên, vợ Gia-cốp, Giô-sép, và Bên-gia-min. [20] Giô-sép đã có con tại xứ Ê-díp-tô, là Ma-na-se, và Ép-ra-im, mà Ách-nát, con gái của Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, đã sanh cho người. [21] Các con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-kê, Ách-bên, Giê-ra, Na-a-man, Ê-hi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim, và A-rết. [22] Vả, các con trai của Ra-chên sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là mười bốn người. [23] Con trai của Ðan là Hu-sim. [24] Các con trai của Nép-ta-li là Giát-sê-ên, Gu-ni, Dít-se, và Si-lem. [25] Vả, các con trai của nàng Bi-la sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là bảy người. Nàng là con đòi của La-ban đã cho theo hầu Ra-chên, con gái mình. [26] Các người đi đến xứ Ê-díp-tô với Gia-cốp, tức là các người do nơi Gia-cốp sanh, nếu không kể các nàng dâu, thì hết thảy là sáu mươi sáu người. [27] Con của Giô-sép đã sanh tại Ê-díp-tô được hai. Vậy, các người thuộc về nhà Gia-cốp đi đến Ê-díp-tô, cọng hết thảy là bảy mươi người. [28] Gia-cốp sai Giu-đa đi đến trước đặng xin Giô-sép đưa mình vào bờ cõi Gô-sen. Vậy, họ đều vào xứ Gô-sen. [29] Giô-sép thắng xe đi lên Gô-sen, đón Y-sơ-ra-ên, cha mình. Người ra mắt cha, ôm choàng lấy người và khóc một hồi lâu. [30] Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Chớ chi cho cha chết bây giờ đi! vì cha đã thấy được mặt con, và biết con vẫn còn sống. [31] Ðoạn Giô-sép nói cùng anh em và người nhà cha mình rằng: Tôi sẽ lên trước tâu cho Pha-ra-ôn hay rằng: Anh em và cả nhà cha tôi, ở xứ Ca-na-an đã đến cùng tôi. [32] Họ vốn làm nghề chăn chiên, nuôi bầy súc vật; có dẫn theo hết bầy chiên, bò và các tài vật của mình. [33] Và khi Pha-ra-ôn truyền gọi anh em mà hỏi rằng: Các ngươi làm nghề chi? [34] Thì hãy tâu rằng: Kẻ tôi tớ chúa cùng tổ phụ chúng tôi vẫn làm nghề nuôi súc vật từ thuở còn nhỏ cho đến giờ. Ấy hầu cho anh em đặng ở lại xứ Gô-sen, vì dân Ê-díp-tô có tánh gớm ghê hết thảy kẻ chăn chiên lắm. |
Chapter 47
Chương 47
[1] Joseph went and told Pharaoh, "My father and brothers, with their flocks and herds and everything they own, have come from the land of Canaan and are now in Goshen."
[2] He chose five of his brothers and presented them before Pharaoh. [3] Pharaoh asked the brothers, "What is your occupation?" "Your servants are shepherds," they replied to Pharaoh, "just as our fathers were." [4] They also said to him, "We have come to live here awhile, because the famine is severe in Canaan and your servants' flocks have no pasture. So now, please let your servants settle in Goshen." [5] Pharaoh said to Joseph, "Your father and your brothers have come to you, [6] and the land of Egypt is before you; settle your father and your brothers in the best part of the land. Let them live in Goshen. And if you know of any among them with special ability, put them in charge of my own livestock." [7] Then Joseph brought his father Jacob in and presented him before Pharaoh. After Jacob blessed Pharaoh, [8] Pharaoh asked him, "How old are you?" [9] And Jacob said to Pharaoh, "The years of my pilgrimage are a hundred and thirty. My years have been few and difficult, and they do not equal the years of the pilgrimage of my fathers." [10] Then Jacob blessed Pharaoh and went out from his presence. [11] So Joseph settled his father and his brothers in Egypt and gave them property in the best part of the land, the district of Rameses, as Pharaoh directed. [12] Joseph also provided his father and his brothers and all his father's household with food, according to the number of their children. [13] There was no food, however, in the whole region because the famine was severe; both Egypt and Canaan wasted away because of the famine. [14] Joseph collected all the money that was to be found in Egypt and Canaan in payment for the grain they were buying, and he brought it to Pharaoh's palace. [15] When the money of the people of Egypt and Canaan was gone, all Egypt came to Joseph and said, "Give us food. Why should we die before your eyes? Our money is used up." [16] "Then bring your livestock," said Joseph. "I will sell you food in exchange for your livestock, since your money is gone." [17] So they brought their livestock to Joseph, and he gave them food in exchange for their horses, their sheep and goats, their cattle and donkeys. And he brought them through that year with food in exchange for all their livestock. [18] When that year was over, they came to him the following year and said, "We cannot hide from our lord the fact that since our money is gone and our livestock belongs to you, there is nothing left for our lord except our bodies and our land. [19] Why should we perish before your eyes-- we and our land as well? Buy us and our land in exchange for food, and we with our land will be in bondage to Pharaoh. Give us seed so that we may live and not die, and that the land may not become desolate." [20] So Joseph bought all the land in Egypt for Pharaoh. The Egyptians, one and all, sold their fields, because the famine was too severe for them. The land became Pharaoh's, [21] and Joseph reduced the people to servitude, from one end of Egypt to the other. [22] However, he did not buy the land of the priests, because they received a regular allotment from Pharaoh and had food enough from the allotment Pharaoh gave them. That is why they did not sell their land. [23] Joseph said to the people, "Now that I have bought you and your land today for Pharaoh, here is seed for you so you can plant the ground. [24] But when the crop comes in, give a fifth of it to Pharaoh. The other four-fifths you may keep as seed for the fields and as food for yourselves and your households and your children." [25] "You have saved our lives," they said. "May we find favor in the eyes of our lord; we will be in bondage to Pharaoh." [26] So Joseph established it as a law concerning land in Egypt-- still in force today-- that a fifth of the produce belongs to Pharaoh. It was only the land of the priests that did not become Pharaoh's. [27] Now the Israelites settled in Egypt in the region of Goshen. They acquired property there and were fruitful and increased greatly in number. [28] Jacob lived in Egypt seventeen years, and the years of his life were a hundred and forty-seven. [29] When the time drew near for Israel to die, he called for his son Joseph and said to him, "If I have found favor in your eyes, put your hand under my thigh and promise that you will show me kindness and faithfulness. Do not bury me in Egypt, [30] but when I rest with my fathers, carry me out of Egypt and bury me where they are buried." "I will do as you say," he said. [31] "Swear to me," he said. Then Joseph swore to him, and Israel worshiped as he leaned on the top of his staff. |
[1] Giô-sép đến tâu mọi điều đó cho Pha-ra-ôn hay, và nói rằng: Cha và anh em tôi đã ở xứ Ca-na-an đến, có đem theo chiên, bò, cùng các tài vật của mình. Hiện bây giờ đương ở trong xứ Gô-sen.
[2] Người bèn đưa năm người trong bọn anh em mình vào yết kiến Pha-ra-ôn. [3] Pha-ra-ôn hỏi: Các ngươi làm nghề chi? Tâu rằng: Kẻ tôi tớ bệ hạ là kẻ chăn chiên, như tổ phụ chúng tôi khi trước. [4] Rồi lại tâu rằng: Ấy đặng kiều ngụ trong xứ mà kẻ tôi tớ bệ hạ đã đến; vì xứ Ca-na-an đói kém lớn lắm, không còn đồng cỏ chi hết cho bầy súc vật ăn. Vậy, xin phép cho kẻ tôi tớ bệ hạ ngụ tại xứ Gô-sen. [5] Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép như vầy: Cha và anh em ngươi đã đến cùng ngươi; [6] vậy, xứ Ê-díp-tô sẵn dành cho ngươi; hãy cho cha và anh em ở chốn nào tốt hơn hết trong xứ; hãy cho ở tại xứ Gô-sen vậy. Và nếu trong các người đó, ngươi biết ai giỏi, hãy đặt họ chăn các bầy súc vật của ta. [7] Ðoạn, Giô-sép dẫn Gia-cốp, cha mình, đến yết-kiến Pha-ra-ôn. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn. [8] Pha-ra-ôn hỏi Gia-cốp rằng: Ngươi hưởng thọ được bao nhiêu tuổi? [9] Gia-cốp tâu rằng: Người năm tôi sống ở đời phiêu lưu hết thảy là một trăm ba mươi năm; các năm của đời tôi lấy làm ngắn-ngủi và lại nhọc nhằn, chẳng bằng những năm bình sanh của tổ phụ tôi khi người ở phiêu lưu đó. [10] Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn một lần nữa, rồi lui ra khỏi mặt người. [11] Vậy, Giô-sép vâng mạng Pha-ra-ôn, định chỗ ở cho cha và anh em mình, cho họ một sở đất tốt nhứt trong xứ Ê-díp-tô làm sản nghiệp, tại miền Ram-se. [12] Giô-sép, tùy theo số người, cấp lương thực cho cha, anh em và cả nhà cha mình. [13] Vả, sự đói kém lớn lắm, nên trong khắp xứ chẳng còn lương thực nữa; xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an đều bị hao mòn vì ách đói kém đó. [14] Giô-sép thâu hết bạc tiền trong xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an, tức giá tiền của muôn dân mua lúa; rồi chứa bạc đó vào kho Pha-ra-ôn. [15] Khi bạc tiền trong xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an đã hết, thì tất cả dân Ê-díp-tô đều đến cùng Giô-sép mà kêu rằng: Xin cho chúng tôi lương thực; lẽ nào vì cớ hết tiền mà chúng tôi phải chết trước mặt chúa sao? [16] Giô-sép đáp rằng: Nếu hết bạc tiền rồi, hãy giao súc vật các ngươi cho ta, ta sẽ phát lương thực đổi lại. [17] Ðoạn, dân chúng bèn dẫn súc vật lại cho Giô-sép; Giô-sép phát lương thực đổi lấy ngựa, bầy chiên, bầy bò, và lừa. Năm đó, người thâu các bầy súc vật của họ mà đổi thế lương thực cho. [18] Mãn năm rồi, năm sau dân chúng lại đến kêu cùng người rằng: tiền bạc sạch trơn, bầy súc vật đã giao cho chúa; bây giờ chỉ sẵn dành cho chúa bổn thân và đất ruộng. [19] Lẽ nào chúng tôi và đất ruộng phải hao mòn trước mặt chúa sao? Hãy mua đổi lấy lương thực chúng tôi và đất ruộng luôn đi. Vậy, chúng tôi cùng đất ruộng sẽ làm tôi mọi cho Pha-ra-ôn. Hãy cho giống chi đặng gieo, hầu cho chúng tôi sống khỏi chết, và đất không phải bỏ hoang. [20] Giô-sép bèn mua hết thảy ruộng đất trong xứ Ê-díp-tô cho Pha-ra-ôn; vì sự đói kém thúc giục nên mọi người Ê-díp-tô đều đem bán ruộng mình; vậy, ruộng đất đều thuộc về Pha-ra-ôn. [21] Còn dân chúng, từ đầu nầy đến đầu kia, người đều dời về ở trong các thành. [22] Song ruộng đất của những thầy cả thì Giô-sép không mua đến, vì những thầy cả có lãnh một phần lương của Pha-ra-ôn đã định; vậy, họ ăn phần lương thực của Pha-ra-ôn đã cấp cho. Thế cho nên những thầy cả chẳng đem bán đất của mình. [23] Giô-sép nói cùng dân chúng rằng: Nầy, ta đã mua các ngươi và ruộng đất cho Pha-ra-ôn; đây, hột giống cho các ngươi đặng gieo mạ trong ruộng đó. [24] Ðến mùa gặt, phải nộp cho Pha-ra-ôn một phần năm, còn bốn phần kia để cho các ngươi làm giống gieo mạ, dùng lương thực cho mình, cho người nhà cùng cho các con nhỏ mình. [25] Dân chúng nói rằng: Chúa đã cứu mạng chúng tôi! Cầu xin cho chúng tôi được nhờ ơn trước mặt chúa, thì sẽ làm tôi mọi cho Pha-ra-ôn. [26] Về việc đó, Giô-sép bèn định một luật, cho đến ngày nay hãy còn, buộc đất Ê-díp-tô phải nộp thuế cho Pha-ra-ôn một phần năm hoa lợi mình. Chỉ đất ruộng của những thầy cả chẳng thuộc về Pha-ra-ôn. [27] Vậy, Y-sơ-ra-ên trú ngụ tại miền Gô-sen thuộc về xứ Ê-díp-tô, gây được cơ nghiệp tại đó, sanh sản và thêm lên bội phần. [28] Gia-cốp kiều ngụ trong xứ Ê-díp-tô được mười bảy năm, hưởng thọ được một trăm bốn mươi bảy tuổi. [29] Khi ngày gần chết, Y-sơ-ra-ên gọi Giô-sép, con trai mình, mà nói rằng: Nếu cha được nhờ ơn trước mặt con, xin hãy để tay trên đùi cha cậy hết lòng nhơn từ và thành thực ở cùng cha, xin con đừng chôn cha tại đất Ê-díp-tô. [30] Khi cha an-giấc cùng tổ phụ rồi, hãy đem cha ra khỏi Ê-díp-tô; chôn chung cùng mồ mả của người. Giô-sép thưa rằng: Con sẽ làm y theo lời cha dặn. [31] Giô-sép nói: Con hãy thề đi. Giô-sép bèn thề. Ðoạn, Y-sơ-ra-ên quì lạy nơi đầu giường mình. |
Chapter 48
Chương 48
[1] Some time later Joseph was told, "Your father is ill." So he took his two sons Manasseh and Ephraim along with him.
[2] When Jacob was told, "Your son Joseph has come to you," Israel rallied his strength and sat up on the bed. [3] Jacob said to Joseph, "God Almighty appeared to me at Luz in the land of Canaan, and there he blessed me [4] and said to me, 'I am going to make you fruitful and will increase your numbers. I will make you a community of peoples, and I will give this land as an everlasting possession to your descendants after you.' [5] "Now then, your two sons born to you in Egypt before I came to you here will be reckoned as mine; Ephraim and Manasseh will be mine, just as Reuben and Simeon are mine. [6] Any children born to you after them will be yours; in the territory they inherit they will be reckoned under the names of their brothers. [7] As I was returning from Paddan, to my sorrow Rachel died in the land of Canaan while we were still on the way, a little distance from Ephrath. So I buried her there beside the road to Ephrath" (that is, Bethlehem). [8] When Israel saw the sons of Joseph, he asked, "Who are these?" [9] "They are the sons God has given me here," Joseph said to his father. Then Israel said, "Bring them to me so I may bless them." [10] Now Israel's eyes were failing because of old age, and he could hardly see. So Joseph brought his sons close to him, and his father kissed them and embraced them. [11] Israel said to Joseph, "I never expected to see your face again, and now God has allowed me to see your children too." [12] Then Joseph removed them from Israel's knees and bowed down with his face to the ground. [13] And Joseph took both of them, Ephraim on his right toward Israel's left hand and Manasseh on his left toward Israel's right hand, and brought them close to him. [14] But Israel reached out his right hand and put it on Ephraim's head, though he was the younger, and crossing his arms, he put his left hand on Manasseh's head, even though Manasseh was the firstborn. [15] Then he blessed Joseph and said, "May the God before whom my fathers Abraham and Isaac walked, the God who has been my shepherd all my life to this day, [16] the Angel who has delivered me from all harm--may he bless these boys. May they be called by my name and the names of my fathers Abraham and Isaac, and may they increase greatly upon the earth." [17] When Joseph saw his father placing his right hand on Ephraim's head he was displeased; so he took hold of his father's hand to move it from Ephraim's head to Manasseh's head. [18] Joseph said to him, "No, my father, this one is the firstborn; put your right hand on his head." [19] But his father refused and said, "I know, my son, I know. He too will become a people, and he too will become great. Nevertheless, his younger brother will be greater than he, and his descendants will become a group of nations." [20] He blessed them that day and said, "In your name will Israel pronounce this blessing: 'May God make you like Ephraim and Manasseh.'" So he put Ephraim ahead of Manasseh. [21] Then Israel said to Joseph, "I am about to die, but God will be with you and take you back to the land of your fathers. [22] And to you, as one who is over your brothers, I give the ridge of land I took from the Amorites with my sword and my bow." |
[1] Vả, khi các việc đó qua rồi, có người nói cùng Giô-sép rằng: Nầy cha người đau; Giô-sép bèn đem Ma-na-se và Ép-ra-im, hai đứa con trai mình, cùng đi đến.
[2] Họ cho Gia-cốp hay và nói rằng: Nầy Giô-sép, con trai ông, đến thăm ông đó; Y-sơ-ra-ên cố gượng ngồi dậy trên giường. [3] Gia-cốp nói cùng Giô-sép rằng: Ðức Chúa Trời toàn năng đã hiện ra, bà ban phước cho cha tại Lu-xơ, trong xứ Ca-na-an, [4] mà phán rằng: Nầy ta sẽ làm cho ngươi sanh sản và thêm nhiều, làm thành một hội dân; ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy làm cơ nghiệp đời đời. [5] Bây giờ, hai đứa con trai đã sanh cho con tại xứ Ê-díp-tô trước khi cha đến, là Ép-ra-im và Ma-na-se, cũng sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy. [6] Còn mấy đứa mà con sanh kế đó, thì sẽ thuộc về con; về phần hưởng cơ nghiệp, chúng nó sẽ đồng một thể cùng anh em mình. [7] Khi cha ở Pha-đan trở về xứ Ca-na-an, thì Ra-chên chết dọc đường có mặt cha, gần Ê-phơ-rát; cha chôn người ở bên con đường đi về Ê-phơ-rát (tức là Bết-lê-hem). [8] Y-sơ-ra-ên thấy các con trai Giô-sép, bèn hỏi rằng: Những đứa nầy là ai? [9] Giô-sép thưa rằng: Ấy là những con trai của con mà Ðức Chúa Trời đã cho tại xứ nầy. Y-sơ-ra-ên lại nói: Xin hãy đem đến đây, đặng cha chúc phước cho chúng nó. [10] Vả, mắt của Y-sơ-ra-ên già nên làng, chẳng thấy chi nữa, bèn biểu chúng nó lại gần, ôm choàng và hôn. [11] Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Trước cha tưởng chẳng còn thấy được mặt con, nhưng bây giờ Ðức Chúa Trời lại làm cho cha thấy được đến dòng dõi con nữa. [12] Giô-sép dẫn hai đứa con trai ra khỏi hai đầu gối cha mình, rồi sấp mình xuống đất. [13] Ðoạn, người dẫn hai đứa trẻ lại gần cha; tay hữu thì dẫn Ép-ra-im sang qua phía tả của cha, còn tay tả dắt Ma-na-se sang qua phía hữu. [14] Y-sơ-ra-ên đưa tay mặt ra, để trên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ, còn tay trái lại để trên đầu Ma-na-se. Người có ý riêng để tay như vậy, vì Ma-na-se là đứa lớn. [15] Rồi người chúc phước cho Giô-sép rằng: Cầu xin Ðức Chúa Trời mà tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác đã thờ phượng; là Ðức Chúa Trời đã chăn nuôi tôi từ khi mới lọt lòng cho đến ngày nay, [16] thiên sứ đã cứu tôi ra ngoài vòng hoạn nạn, hãy ban phước cho hai đứa trẻ nầy; nối danh tôi và tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác, và cho chúng nó thêm lên nhiều vô số trên mặt đất! [17] Nhưng Giô-sép thấy cha mình để tay hữu trên đầu Ép-ra-im, thì có ý bất bình, liền nắm lấy tay cha đã để lên đầu Ép-ra-im mà tráo đổi qua đấu Ma-na-se, [18] rồi thưa rằng: Chẳng phải vậy, cha. Ðứa nầy đầu lòng, để tay hữu cha trên đầu nó mới phải chớ. [19] Nhưng cha người không chịu và cãi rằng: Cha biết, con, cha biết. Nó sẽ trở nên một dân; nó cũng sẽ lớn vậy, con; song thể nào em nó cũng sẽ lớn hơn và dòng dõi nó sẽ thành ra vô số nước. [20] Trong ngày đó, người chúc phước cho hai đứa con trai nầy mà nói rằng: Ấy vì ngươi mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ chúc phước nhau rằng: Cầu xin Ðức Chúa Trời làm cho ngươi được giống như Ép-ra-im và Ma-na-se. Vậy, Gia-cốp đặt Ép-ra-im trước Ma-na-se. [21] Y-sơ-ra-ên lại nói cùng Giô-sép rằng: Nầy, cha sẽ thác, nhưng Ðức Chúa Trời sẽ phù hộ và đem các con trở về xứ tổ phụ. [22] Còn cha sẽ cho con một phần đất trổi hơn các anh em, là phần đất của cha đã dùng cung-kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít đó. |
Chapter 49
Chương 49
[1] Then Jacob called for his sons and said: "Gather around so I can tell you what will happen to you in days to come.
[2] "Assemble and listen, sons of Jacob; listen to your father Israel. [3] "Reuben, you are my firstborn, my might, the first sign of my strength, excelling in honor, excelling in power. [4] Turbulent as the waters, you will no longer excel, for you went up onto your father's bed, onto my couch and defiled it. [5] "Simeon and Levi are brothers-- their swords are weapons of violence. [6] Let me not enter their council, let me not join their assembly, for they have killed men in their anger and hamstrung oxen as they pleased. [7] Cursed be their anger, so fierce, and their fury, so cruel! I will scatter them in Jacob and disperse them in Israel. [8] "Judah, your brothers will praise you; your hand will be on the neck of your enemies; your father's sons will bow down to you. [9] You are a lion's cub, O Judah; you return from the prey, my son. Like a lion he crouches and lies down, like a lioness-- who dares to rouse him? [10] The scepter will not depart from Judah, nor the ruler's staff from between his feet, until he comes to whom it belongs and the obedience of the nations is his. [11] He will tether his donkey to a vine, his colt to the choicest branch; he will wash his garments in wine, his robes in the blood of grapes. [12] His eyes will be darker than wine, his teeth whiter than milk. [13] "Zebulun will live by the seashore and become a haven for ships; his border will extend toward Sidon. [14] "Issachar is a rawboned donkey lying down between two saddlebags. [15] When he sees how good is his resting place and how pleasant is his land, he will bend his shoulder to the burden and submit to forced labor. [16] "Dan will provide justice for his people as one of the tribes of Israel. [17] Dan will be a serpent by the roadside, a viper along the path, that bites the horse's heels so that its rider tumbles backward. [18] "I look for your deliverance, O LORD. [19] "Gad will be attacked by a band of raiders, but he will attack them at their heels. [20] "Asher's food will be rich; he will provide delicacies fit for a king. [21] "Naphtali is a doe set free that bears beautiful fawns. [22] "Joseph is a fruitful vine, a fruitful vine near a spring, whose branches climb over a wall. [23] With bitterness archers attacked him; they shot at him with hostility. [24] But his bow remained steady, his strong arms stayed limber, because of the hand of the Mighty One of Jacob, because of the Shepherd, the Rock of Israel, [25] because of your father's God, who helps you, because of the Almighty, who blesses you with blessings of the heavens above, blessings of the deep that lies below, blessings of the breast and womb. [26] Your father's blessings are greater than the blessings of the ancient mountains, than the bounty of the age-old hills. Let all these rest on the head of Joseph, on the brow of the prince among his brothers. [27] "Benjamin is a ravenous wolf; in the morning he devours the prey, in the evening he divides the plunder." [28] All these are the twelve tribes of Israel, and this is what their father said to them when he blessed them, giving each the blessing appropriate to him. [29] Then he gave them these instructions: "I am about to be gathered to my people. Bury me with my fathers in the cave in the field of Ephron the Hittite, [30] the cave in the field of Machpelah, near Mamre in Canaan, which Abraham bought as a burial place from Ephron the Hittite, along with the field. [31] There Abraham and his wife Sarah were buried, there Isaac and his wife Rebekah were buried, and there I buried Leah. [32] The field and the cave in it were bought from the Hittites." [33] When Jacob had finished giving instructions to his sons, he drew his feet up into the bed, breathed his last and was gathered to his people. |
[1] Gia-cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng: Hãy hội lại đây, cha sẽ nói những điều phải xảy đến cho các con ngày sau.
[2] Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy hội lại mà nghe; Nghe lời Y-sơ-ra-ên, cha của các con. [3] Hỡi Ru-bên! con là trưởng nam của cha, Sức lực cha, và đầu tiên sự mạnh mẽ cha; Vốn có sự tôn trọng và quyền năng tót chúng. [4] Con sôi trào như nước, nên sẽ chẳng phần hơn ai! Vì con đã lên giường cha. Con lên giường cha bèn làm ô làm dơ đó! [5] Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột. Thanh gươm chúng nó thật khí giới hung tàn. [6] Cầu cho tâm hồn cha chớ có đồng mưu, Vinh hiển cha chớ hiệp cùng hội họ; Vì họ đã giết người trong cơn giận dữ, Cắt nhượng bò đực vì ý riêng mình. [7] Ðáng rủa sả thay cơn giận dữ họ, vì thật là hung mạnh! Ðáng rủa sả thay khí giận họ, vì dữ dằn thay! Ta sẽ phân chia họ ra trong nhà Gia-cốp, Tan lạc họ trong dân Y-sơ-ra-ên. [8] Hỡi Giu-đa! các anh em sẽ khen ngợi con, Tay con chận cổ quân nghịch, Các con trai cha sẽ quì lạy trước mặt con. [9] Giu-đa là một sư tử tơ; Hỡi con! Con bắt được mồi rồi tha về. Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực, Như sư tử cái; há ai dám khiến ngồi lên? [10] Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa, Kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chơn nó, Cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới, Và các dân vâng phục Ðấng đó. [11] Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho, Lừa con mình vào nhành nho tốt nhứt. Người giặt áo xống mình vào rượu nho, Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình. [12] Mắt người đỏ vì cớ rượu, Răng nhiều trắng vì cớ sữa. [13] Sa-bu-lôn sẽ ở nơi gành biển, Tức là nơi có tàu đậu; Bờ cõi người chạy về hướng Si-đôn. [14] Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ, Nằm nghỉ giữa chuồng; [15] Thấy rằng sự yên ổn là tốt lành, Và đất-đai đẹp lắm thay. Người đã rùn vai vác gánh nặng, Phải vâng phục những điều sưu-dịch. [16] Ðan sẽ xử đoán dân chúng mình, Như một trong các chi phái Y-sơ-ra-ên. [17] Ðan sẽ là một con rắn trên đường, Một con rắn lục trong chốn nẻo cùng, Cắn vó ngựa, Làm cho kẻ cỡi phải té nhào. [18] Hỡi Giê-hô-va! tôi trông ơn chửng-cứu của Ngài! [19] Còn Gát sẽ bị một đạo binh xông đánh, Nhưng người xông đánh lại và đuổi theo. [20] Do nơi A-se có thực vật ngon, Người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua. [21] Nép-ta-li là nai cái thả chuồng Nói bày nhiều lời văn hoa. [22] Giô-sép là chồi của cây tươi tốt, Mọc gần bên suối nước; Nhành nhánh phủ bao trên ngọn tường. [23] Kẻ cầm cung đã ghẹo-chọc người, Bắn tên vào, và hãm đánh; [24] Nhờ tay Ðấng toàn năng của Gia-cốp, Nên cung người vẫn bền-chắc; Nhờ Ðấng Chăn chiên, là Ðá của Y-sơ-ra-ên, Nên hai tay người thêm mạnh. [25] Ðức Chúa Trời của Cha sẽ giúp đỡ con; Ðấng toàn năng sẽ ban phước cho con, Tức là phước lành ở chốn trời cao xuống, Cùng phước lành ở nơi vực rộng thẳm lên, Phước lành của vú, và của lòng mẹ. [26] Phước lành cha chúc cho con vượt lần lên Cao hơn các phước lành của tổ phụ cha, Cho đến các chót núi đời đời: Các phước nầy sẽ ở nơi đầu Giô-sép, Nơi trán của chúa các anh em mình. [27] Bên-gia-min là một con chó sói hay cấu-xé; Ban mai đi đánh chết mồi, Chiều phân chia mồi đã được. [28] Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên; và đó là lời của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy. [29] Ðoạn, người ra lịnh cho các con trai mà rằng: Cha sẽ về nơi tổ tông, các con hãy chôn cha chung cùng tổ phụ, nơi hang đá tại đồng ruộng Ép-rôn, người Hê-tít, [30] tức là hang đá ở trong đồng Mặc-bê-la, ngang Mam-rê, thuộc về xứ Ca-na-an, mà Áp-ra-ham đã mua làm mộ địa luôn với đồng ruộng của Ép-rôn [31] Ấy nơi đó, người ta đã chôn Áp-ra-ham và Sa-ra, vợ người; Y-sác và Rê-be-ca, vợ người; mà lại nơi đó cha cũng đã chôn Lê-a nữa. [32] Cái đồng ruộng cùng hang đá ở tại đó đã mua của dân họ Hếch vậy. [33] Khi trối mấy lời nầy cho các con mình xong, thì Gia-cốp để chơn vào giường lại, rồi tắt hơi, được về cùng tổ tông mình. |
Chapter 50
Chương 50
[1] Joseph threw himself upon his father and wept over him and kissed him.
[2] Then Joseph directed the physicians in his service to embalm his father Israel. So the physicians embalmed him, [3] taking a full forty days, for that was the time required for embalming. And the Egyptians mourned for him seventy days. [4] When the days of mourning had passed, Joseph said to Pharaoh's court, "If I have found favor in your eyes, speak to Pharaoh for me. Tell him, [5] 'My father made me swear an oath and said, "I am about to die; bury me in the tomb I dug for myself in the land of Canaan." Now let me go up and bury my father; then I will return.'" [6] Pharaoh said, "Go up and bury your father, as he made you swear to do." [7] So Joseph went up to bury his father. All Pharaoh's officials accompanied him-- the dignitaries of his court and all the dignitaries of Egypt-- [8] besides all the members of Joseph's household and his brothers and those belonging to his father's household. Only their children and their flocks and herds were left in Goshen. [9] Chariots and horsemen also went up with him. It was a very large company. [10] When they reached the threshing floor of Atad, near the Jordan, they lamented loudly and bitterly; and there Joseph observed a seven-day period of mourning for his father. [11] When the Canaanites who lived there saw the mourning at the threshing floor of Atad, they said, "The Egyptians are holding a solemn ceremony of mourning." That is why that place near the Jordan is called Abel Mizraim. [12] So Jacob's sons did as he had commanded them: [13] They carried him to the land of Canaan and buried him in the cave in the field of Machpelah, near Mamre, which Abraham had bought as a burial place from Ephron the Hittite, along with the field. [14] After burying his father, Joseph returned to Egypt, together with his brothers and all the others who had gone with him to bury his father. [15] When Joseph's brothers saw that their father was dead, they said, "What if Joseph holds a grudge against us and pays us back for all the wrongs we did to him?" [16] So they sent word to Joseph, saying, "Your father left these instructions before he died: [17] 'This is what you are to say to Joseph: I ask you to forgive your brothers the sins and the wrongs they committed in treating you so badly.' Now please forgive the sins of the servants of the God of your father." When their message came to him, Joseph wept. [18] His brothers then came and threw themselves down before him. "We are your slaves," they said. [19] But Joseph said to them, "Don't be afraid. Am I in the place of God? [20] You intended to harm me, but God intended it for good to accomplish what is now being done, the saving of many lives. [21] So then, don't be afraid. I will provide for you and your children." And he reassured them and spoke kindly to them. [22] Joseph stayed in Egypt, along with all his father's family. He lived a hundred and ten years [23] and saw the third generation of Ephraim's children. Also the children of Makir son of Manasseh were placed at birth on Joseph's knees. [24] Then Joseph said to his brothers, "I am about to die. But God will surely come to your aid and take you up out of this land to the land he promised on oath to Abraham, Isaac and Jacob." [25] And Joseph made the sons of Israel swear an oath and said, "God will surely come to your aid, and then you must carry my bones up from this place." [26] So Joseph died at the age of a hundred and ten. And after they embalmed him, he was placed in a coffin in Egypt. |
[1] Giô-sép bèn cúi đầu xuống mặt cha mình, hôn người và khóc.
[2] Ðoạn, Giô-sép biểu mấy thầy thuốc hầu việc mình, dùng thuốc thơm xông cho xác cha; thầy thuốc bèn xông cho Y-sơ-ra-ên. [3] Bốn mươi ngày xông thuốc hầu qua, vì ấy là hạn ngày dùng xông thuốc; dân Ê-díp-tô khóc người trong bảy mươi ngày. [4] Khi mãn tang rồi, Giô-sép bèn nói cùng quần thần Pha-ra-ôn rằng: Nếu tôi được ơn trước mặt các ngươi, xin hãy thuật lại lời nầy cho Pha-ra-ôn nghe: [5] Cha tôi có biểu tôi thề mà rằng: Nầy, cha sẽ chết, con hãy chôn cha nơi mộ địa ta đã mua sẵn rồi trong xứ Ca-na-an. Vậy bây giờ, tôi phải lên đó chôn cha tôi, rồi sẽ trở xuống. [6] Pha-ra-ôn bèn phán rằng: Hãy trở lên chôn cha ngươi, y như lời người đã bắt thề đó. [7] Giô-sép dời xác cha mình trở lên chôn; quần thần Pha-ra-ôn, các bực trưởng lão trong đền, các bực trưởng lão trong xứ Ê-díp-tô, [8] hết thảy nội nhà Giô-sép, các anh em và nội nhà cha mình đều đi lên theo đưa với người; trong Gô-sen chỉ còn những đứa trẻ và chiên, cùng bò của họ mà thôi. [9] Lại cũng có đem ngựa và xe theo lên nữa: thật là một đám xác rất đông thay! [10] Khi đến sân đạp lúa của A-tát, ở bên kia sông Giô-đanh, thì họ làm lễ khóc than rất nên trọng thể tại đó; đoạn, Giô-sép để tang cha trong bảy ngày. [11] Dân Ca-na-an, tức là dân xứ ấy, thấy khóc than nơi sân đạp lúa A-tát, thì nói rằng: Ấy là một đám khóc than trọng thể của dân Ê-díp-tô đó! Bởi cớ ấy người ta gọi cái sân nầy tên là A-bên-Mích-ra-im ở bên kia sông Giô-đanh. [12] Vậy, các con trai Gia-cốp làm theo lời cha trối lại, [13] dời xác người về xứ Ca-na-an, chôn trong hanh đá của đồng Mặc-bê-la ngang Mam-rê, mà Áp-ra-ham đã mua luôn với đồng ruộng Ép-rôn, người Hê-tít, để dùng làm mộ địa. [14] Chôn cha xong rồi, Giô-sép cùng các anh em và các người đi lên theo đưa xác cha, đều trở xuống xứ Ê-díp-tô. [15] Các anh Giô-sép thấy cha mình chết rồi, thì nói với nhau rằng: Có lẽ Giô-sép sẽ ganh ghét chúng ta, và trả thù việc ác chúng ta đã làm cho người chăng. [16] Các anh bèn sai người đến nói cùng Giô-sép rằng: Trước khi qua đời, cha em có trối rằng: [17] Hãy nói lại cho Giô-sép như vầy: Ôi! xin hãy tha điều ác, tội phạm của các anh con đi, vì chúng nó đã lỗi cũng con đó; nhưng bây giờ cha xin con hãy tha tội kẻ tôi tớ của Ðức Chúa Trời cha. Nghe qua mấy lời nầy, Giô-sép bèn khóc. [18] Chánh các anh người đến sắp mình xuống dưới chơn mà nói rằng: Các anh đây thật là kẻ tôi tớ của em đó. [19] Giô-sép đáp rằng: Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Ðức Chúa Trời sao? [20] Các anh toan hại tôi, nhưng Ðức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo. [21] Vậy, đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh. Ðoạn, Giô-sép an ủy các anh, và lấy lời êm dịu mà nói cùng họ. [22] Giô-sép cùng nhà cha mình kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô; người hưởng thọ được một trăm mười tuổi. [23] Người thấy được các con cháu Ép-ra-im đến đời thứ ba, và cũng có được nâng niu trên gối mình các con của Ma-ki, tức con trai của Ma-na-se, nữa. [24] Kế, Giô-sép nói cùng các anh em rằng: Em sẽ chết, nhưng Ðức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. [25] Giô-sép biểu các con trai của Y-sơ-ra-ên thề mà rằng: Quả thật, Ðức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; xin anh em hãy dời hài cốt tôi khỏi xứ nầy. [26] Ðoạn, Giô-sép qua đời, hưởng thọ được một trăm mười tuổi. Người ta xông thuốc thơm cho xác Giô-sép, và liệm trong một quan tài tại xứ Ê-díp-tô. |